CloudHà Tĩnh 25° - 27°C
CloudHà Tĩnh 25° - 27°C
Đường dây nóng tiếp nhận thông báo sự cố An toàn thông tin mạngThông báo lịch tiếp công dân định kỳ tháng 8 năm 2025Thông báo thời gian tặng quà trực tiếp cho người dân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc Khánh 02/9Về việc điều chỉnh phương án và đấu giá quyền sử dụng đất tại vùng quy hoạch đất ở dân cư: Tổ dân phố 7, Tổ dân phố 10, xã Cẩm XuyênTriển khai thực hiện Công điện số 42/CĐ-UBND ngày 26/9/2025 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc chủ động ứng phó với bão BUALOI Đường dây nóng tiếp nhận thông báo sự cố An toàn thông tin mạngThông báo lịch tiếp công dân định kỳ tháng 8 năm 2025Thông báo thời gian tặng quà trực tiếp cho người dân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc Khánh 02/9Về việc điều chỉnh phương án và đấu giá quyền sử dụng đất tại vùng quy hoạch đất ở dân cư: Tổ dân phố 7, Tổ dân phố 10, xã Cẩm XuyênTriển khai thực hiện Công điện số 42/CĐ-UBND ngày 26/9/2025 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc chủ động ứng phó với bão BUALOI Đường dây nóng tiếp nhận thông báo sự cố An toàn thông tin mạngThông báo lịch tiếp công dân định kỳ tháng 8 năm 2025Thông báo thời gian tặng quà trực tiếp cho người dân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc Khánh 02/9Về việc điều chỉnh phương án và đấu giá quyền sử dụng đất tại vùng quy hoạch đất ở dân cư: Tổ dân phố 7, Tổ dân phố 10, xã Cẩm XuyênTriển khai thực hiện Công điện số 42/CĐ-UBND ngày 26/9/2025 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc chủ động ứng phó với bão BUALOI

Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2025)

Ẩn danh14/08/2025
Ẩn danh14/08/2025
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN

Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025)


Quốc khánh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(02/9/1945 - 02/9/2025)

(Kèm theo Hướng dẫn số
20- HD/BTGDVTU, ngày 22/7/2025 của Ban Tuyên giáo

và Dân vận Tỉnh ủy)


-----


I.
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 - S KIỆN VĨ ĐẠI TRONG

L
ỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM

1. Bối cảnh lịch sử


Cuối năm 1944, đầu năm 1945, cục diện thế giới thay đổi nhanh chóng.

Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc với ưu thế áp đảo nghiêng

về phe Đồng minh. Tại châu Âu, Hồng quân Liên Xô phối hợp với quân đội các

nước Anh, Mỹ, Pháp, Canađa… liên tiếp giành thắng lợi, giải phóng nhiều quốc

gia và tiến vào Béclin. Ngày
09/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến

tranh ở châu Âu kết thúc. Tại châu Á
- Thái Bình Dương, quân đội phát xít Nhật

rơi vào thế bị bao vây, uy hiếp nặng nề. Ngày
08/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với

Nhật, nhanh chóng đánh bại đạo quân Quan Đông, giải phóng vùng Đông Bắc

Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Ngày 14/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô

điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai chính thức chấm dứt.


Tình hình ấy mở ra một bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng

Việt Nam. Trung ương Đảng nhận định: đây là thời cơ “ngàn năm có một” để
Nhân

dân ta vùng lên giành lại độc lập. Trong khi quân Đồng minh chưa kịp vào Đông

Dương làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, thực dân Pháp đã quay trở lại, tìm cách

dựa vào Đồng minh, còn các thế lực khác cũng bắt đầu can thiệp; nếu không chớp

lấy cơ hội này, vận hội dân tộc có thể bị bỏ lỡ.


Ngay từ ngày
09/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp khẩn, ra

chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước rộng khắp. Ngày 12/3/1945,

Trung ương ban hành Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”,

khẳng định: “Đây là thời cơ tốt để
Nhân dân ta vùng lên giành độc lập”.

Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ,

thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân. Ngày 16/4,

Tổng bộ Việt Minh chỉ đạo thành lập các Ủy ban dân tộc giải phóng từ Trung ương

đến địa phương. Đầu tháng 5
/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên

Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo toàn quốc. Ngày
04/6/1945, Khu Giải

phóng Việt Bắc chính thức được thành lập. Từ giữa năm 1945, cao trào kháng Nhật

cứu nước lan rộng, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang,

khởi nghĩa từng phần diễn ra mạnh mẽ tại nhiều địa phương trên cả nước.


2.
Diễn biến
2

Khi thời cơ cách mạng đã chín muồi, ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa

toàn quốc được thành lập và ngay trong ngày đã ra Quân lệnh số 1, phát động tổng

khởi nghĩa trên toàn quốc.


Ngày 16/8/1945, Quốc dân đại hội họp tại Tân Trào thông qua Mười chính

sách lớn của Mặt trận Việt Minh, phê chuẩn Lệnh tổng khởi nghĩa, thống nhất

quốc kỳ nền đỏ sao vàng năm cánh, chọn “Tiến quân ca” làm quốc ca, và cử ra Ủy

ban Giải phóng dân tộc Việt Nam
(tức là Chính phủ Lâm thời cách mạng Việt

Nam) do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Cùng thời điểm đó, Người gửi thư kêu

gọi toàn dân, nhấn mạnh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn

quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.


Từ ngày 14
/8/1945, tại nhiều địa phương, các cấp bộ Đảng và Việt Minh đã

chủ động phát động khởi nghĩa trước khi nhận được lệnh chính thức, căn cứ vào

tình hình cụ thể và tinh thần Chỉ thị “Nhật
- Pháp bắn nhau và hành động của chúng

ta”. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra ở khắp nơi: từ các huyện, xã vùng đồng bằng Bắc Bộ

đến các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa…


Chiều 16
/8/1945, theo chỉ đạo của Ủy ban Khởi nghĩa, một đơn vị Giải phóng

quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy xuất phát từ Tân Trào, tiến về giải phóng

thị xã Thái Nguyên
- mở màn cho chiến dịch quân sự hỗ trợ tổng khởi nghĩa. Cùng lúc,

lực lượng vũ trang Chiến khu Trần Hưng Đạo phối hợp đánh chiếm các địa phương

như Hải Ninh, Quảng Yên, Kiến An; ở miền Trung, lực lượng cách mạng tại Quảng

Ngãi chiếm dinh tỉnh trưởng ngay trong đêm 16
/8 - chính quyền tay sai sụp đổ.

Ngày 18
/8/1945, các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam là

những địa phương đầu tiên giành được chính quyền tại tỉnh lỵ
-
tạo khí thế bừng

bừng khắp cả nước.


Tại Hà Nội, chiều 17
/8/1945, hàng vạn quần chúng từ nội, ngoại thành

tham gia mít tinh lớn tại Nhà hát Lớn, rồi tuần hành qua các phố trung tâm, hô

vang khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh!”, “Việt Nam độc lập!”. Ngày 18
/8/1945, cờ

đỏ sao vàng rực rỡ trên nhiều tuyến phố chính. Đỉnh cao là ngày 19
/8/1945: cuộc

tổng khởi nghĩa nổ ra với khí thế áp đảo. Các đội tự vệ chiến đấu và quần chúng

cách mạng chiếm phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Cảnh sát, Sở Bưu điện, Trại Bảo an

binh…; chính quyền Bảo Đại
- Trần Trọng Kim tan rã. Đêm 19/8/1945, chúng ta

hoàn toàn làm chủ Thủ đô.


Ở Huế
, ngày 20/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Từ ngày

21
/8/1945, hàng loạt cuộc biểu tình thị uy diễn ra, tạo thế áp đảo. Ngày

23
/8/1945, hàng vạn người tiến vào thành phố, chiếm các công sở trọng yếu và

giành chính quyền trong hòa bình.


Tại Sài Gòn
- Gia Định, Xứ ủy Nam Kỳ ấn định ngày khởi nghĩa là

25
/8/1945. Sáng hôm đó, các đoàn công nhân, nông dân, thanh niên từ Gia Định,

Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho đổ về trung tâm thành phố. Quần chúng chiếm
3

lĩnh Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, Bưu điện, nhà ga, nhà máy điện… chính quyền bù

nhìn nhanh chóng sụp đổ, chính quyền cách mạng được thiết lập.


Thắng lợi vang dội tại ba đô thị lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã tạo hiệu ứng lan

tỏa mạnh mẽ. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đất liền

đến hải đảo
- phong trào khởi nghĩa dâng lên như vũ bão. Tại Côn Đảo - nơi từng

được mệnh danh là “địa ngục trần gian”, nơi giam giữ hàng ngàn chiến sĩ cách mạng

kiên trung - khi nhận được tin phát xít Nhật đầu hàng và cuộc Tổng khởi nghĩa đang

lan rộng trong cả nước, tổ chức Đảng trong nhà tù đã nhanh chóng họp bàn, tổ chức

lực lượng, lãnh đạo tù nhân nổi dậy. Tại Phú Quốc, dưới sự lãnh đạo của tổ chức Việt

Minh, tù chính trị cùng quần chúng nhân dân trên đảo cũng vùng lên lật đổ chính

quyền thân Nhật, thiết lập chính quyền cách mạng. Ở nhiều đảo khác như Lý Sơn,

Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Hòn Gai, Vân Đồn… phong trào khởi nghĩa hưởng ứng Tổng

khởi nghĩa Tháng Tám cũng diễn ra mạnh mẽ, đồng thời với các địa phương trên đất

liền, thể hiện tinh thần yêu nước sục sôi, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng độc lập

của toàn dân tộc. Các tổ chức Việt Minh, lực lượng tự vệ và quần chúng yêu nước đã

nhanh chóng phát động các cuộc mít tinh, biểu tình, tước vũ khí của lính bảo an,

chiếm các công sở và tuyên bố chính quyền về tay Nhân dân.


Tại Hà Tĩnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, cán bộ, đảng

viên và
Nhân dân trong tỉnh đã vượt qua khó khăn, tham gia vào công cuộc cứu

quốc của dân tộc. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (ngày 09/3/1945), làn sóng cách

mạng dâng cao
trong toàn tỉnh. Các cơ sở Việt Minh được thành lập và phát triển ở

nhiều nơi. Ngày 20/5/1945, được sự giúp đỡ của Xứ ủy Trung kỳ, Ban Vận động

thành lập Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh ra đời, các nhóm Việt Minh ở các địa

phương được tập hợp lại. Các đoàn thể cứu quốc được mở rộng.


Ngày 08/8/1945, trước sự chuyển biến nhanh chóng của tình hình trong nước,

Việt Minh liên tỉnh tổ chức Đại hội đại biểu để bàn kế hoạch chuẩn bị tổng khởi

nghĩa. Theo quyết định của Đại hội, hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh được chia thành 6

phân khu để chuẩn bị tổ chức khởi nghĩa.


Ngày 13/8/1945, Hội nghị cán bộ Việt minh các huyện thuộc phân khu Nam

Hà (Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và thị xã Hà Tĩnh) họp thảo luận kế

hoạch khởi nghĩa và thành lập ủy ban khởi nghĩa tỉnh. Ngày 15/8/1945, ủy ban khởi

nghĩa liên tỉnh Nghệ Tĩnh ban hành lệnh khởi nghĩa.


Chỉ trong vòng 5 ngày, bắt đầu từ thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Can Lộc

ngày 16/8 và kết thúc là cuộc khởi nghĩa ở Hương Khê vào ngày 21/8, Nhân dân Hà

Tĩnh đã giành được chính quyền. Hà Tĩnh là một trong 4 tỉnh của cả nước giành

được chính quyền sớm nhất trong Cách mạng Tháng Tám. Thắng lợi lịch sử này là

kết tinh của truyền thống văn hóa cách mạng của các tầng lớp Nhân dân tỉnh nhà

qua nhiều thời kỳ, mà trực tiếp là 15 năm đấu tranh đầy gian khổ hy sinh dưới sự

lãnh đạo của Đảng
; đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
4

năm 1945;
mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử Hà Tĩnh với những thành tựu ngày

càng toàn diện hơn.


Chỉ trong vòng 15 ngày
, từ giữa đến cuối tháng 8 năm 1945, cuộc Tổng

khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn trên phạm vi cả nước. Ngày 30
/8/1945,

vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, chấm dứt hoàn toàn chế độ phong kiến kéo dài

hàng nghìn năm.


Ngày
02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đọc Tuyên ngôn Độc lập,
trịnh trọng tuyên bố quyền độc lập, tự do, bình đẳng của

dân tộc Việt Nam trước thế giới
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,

và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam, quyết đem


tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập


ấy”
. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - đánh dấu sự mở đầu kỷ nguyên

mới của dân tộc: kỷ nguyên độc lập, tự do và làm chủ vận mệnh đất nước.


3
. Nguyên nhân thắng lợi

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi là kết quả tổng hòa của

nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là sự kết hợp chặt chẽ giữa thời cơ lịch sử thuận lợi

với sự chuẩn bị công phu, bài bản và sự lãnh đạo sáng suốt, linh hoạt của Đảng
ta do

Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.


Trước hết, thắng lợi đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn và kịp thời của

Đảng. Đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mà Đảng xác định phù hợp

với nguyện vọng của đại đa số Nhân dân. Đảng đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và

năng lực tổ chức thực tiễn xuất sắc khi chỉ đạo toàn dân nổi dậy đúng thời điểm,

nhanh chóng giành chính quyền trong cả nước
với tinh thần: “Dù phải đốt cháy cả

dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.


Thứ hai, thắng lợi
Cách mạng Tháng Tám là thành quả của quá trình chuẩn bị

lâu dài, toàn diện về chính trị, tổ chức, tư tưởng và lực lượng vũ trang. Từ phong

trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, các cuộc vận động Dân chủ, Cao trào kháng Nhật cứu nước

đến việc thành lập
Mặt trận Việt Minh, tổ chức các đội vũ trang, xây dựng căn cứ

địa, mở rộng lực lượng quần chúng… Đảng đã dày công chuẩn bị để sẵn sàng chớp

lấy thời
. Việc chủ động phát động khởi nghĩa từng phần trước khi tổng khởi

nghĩa cũng thể hiện sự nhạy bén và linh hoạt trong chỉ đạo cách mạng.


Thứ ba, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả
của tinh thần yêu

nước, truyền thống bất khuất và khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của toàn
thể dân

tộc Việt Nam. Nhân dân ta, dưới ngọn cờ đoàn kết của Mặt trận Việt Minh, đã nhất

tề đứng dậy ở cả ba miền, từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn,

từ đất liền đến hải đảo. Đây là biểu hiện sinh động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân

tộc, yếu tố nội sinh mang tính quyết định đối với thắng lợi của cách mạng.
5

Thứ tư
, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong bối cảnh quốc tế hết

sức thuận lợi. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của

phát xít Đức và phát xít Nhật. Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, chính quyền tay

sai ở Đông Dương tan rã, tạo nên một khoảng trống quyền lực. Đảng ta đã đánh giá

đúng thời cơ "ngàn năm có một" và phát động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa

khi các thế lực thù địch còn chưa kịp phản ứng hoặc can thiệp.


4
. Ý nghĩa lịch sử

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,
mở ra một bước ngoặt lớn

trong lịch sử dân tộc ta
. Thắng lợi ấy đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp

hơn 80 năm, ách thống trị của phát xít Nhật gần 5 năm và lật nhào ngai vàng phong


kiến ngự trị
hàng thế kỷ ở nước ta, dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa
- nhà nước do Nhân dân lao động làm chủ.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của


cách mạng Việt Nam, mở đầu kỷ nguyên mới của dân tộc: Kỷ nguyên độc lập
- tự

do; kỷ nguyên
Nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận

mệnh
dân tộc; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta trở thành một đảng cầm


quyền, chuẩn bị những điều kiện tiên quyết cho những thắng lợi tiếp theo.


Cách mạng Tháng Tám không chỉ có ý nghĩa đặc biệt đối với lịch sử Việt

Nam mà còn mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Thắng lợi ấy đã cổ

vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa và các lực lượng bị áp bức trên thế giới đứng lên

đấu tranh vì độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với thắng lợi đó, dân tộc Việt

Nam không chỉ giành được độc lập mà còn khẳng định vị thế và con đường
phát

triển
của mình trong dòng chảy của lịch sử thế giới hiện đại.

II.
THÀNH TỰU NỔI BẬT SAU 80 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ

PHÁT TRI
ỂN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM VÀ TỈNH HÀ TĨNH

1. Thành t
ựu của đất nước

1.
1. Giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,

thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế


Sau thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh đầy cam go, thách thức. Chính

quyền cách mạng còn non trẻ phải đối diện với muôn vàn khó khăn, hiểm nguy,

đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong giặc ngoài đan xen.
Trước

tình hình đó,
dưới sự lãnh đạo trực tiếp, sáng suốt, kiên định của Đảng và Chủ tịch

Hồ Chí Minh
, toàn thể dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng, phát huy cao độ

tinh thần tự lực, tự cường, bản lĩnh và trí tuệ sáng tạo, vững vàng vượt qua những

ghềnh thác cam go của lịch sử.
6

Giai đoạn 1945
- 1946, Đảng và Bác Hồ đã lãnh đạo toàn dân thực hiện đồng

thời hai nhiệm vụ: xây dựng chính quyền cách mạng và bảo vệ thành quả Cách

mạng Tháng Tám. Cuộc Tổng tuyển cử ngày
06/01/1946 được tổ chức thành công,

Quốc hội khóa I ra đời; Hiến pháp dân chủ đầu tiên được ban hành; chính quyền

cách mạng không ngừng củng cố; các phong trào xóa nạn mù chữ, diệt “giặc đói”,

“giặc dốt”, “giặc ngoại xâm” được phát động sôi nổi; các thế lực phản cách mạng bị

trấn áp. Trước âm mưu xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp, đêm 19/12/1946,

Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra “Lời kêu gọi

Toàn quốc kháng chiến”
với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định

không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”.


Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, kết hợp giữa đấu

tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh

đạo Nhân dân ta đánh bại từng bước các chiến lược của thực dân Pháp. Đỉnh cao là

chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954
- một bản anh hùng ca vĩ đại,lừng lẫy năm

châu, chấn động địa cầu
, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, công

nhận các quyền dân tộc cơ bản của Nhân dân ta, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến

9 năm trường kỳ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.


Tuy nhiên, sau
đó đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào miền Nam, thực hiện

âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới.

Trước tình thế đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn

Đảng, toàn dân, toàn quân ta kiên quyết thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: cách

mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
- xây dựng hậu phương lớn cho cả nước, và

cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam
- đấu tranh giải phóng miền Nam, thống

nhất đất nước.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là bản anh hùng ca của

dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Trải qua 21 năm trường kỳ, gian khổ và oanh

liệt (1954
- 1975), Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân hai miền đất nước giành thắng

lợi từng bước trước các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ
. Miền Bắc vừa

chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa nỗ lực phục hồi và phát triển kinh tế,

thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn, không ngừng chi viện cho tiền tuyến miền

Nam. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh

lịch sử đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải

phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.


Sau ngày thống nhất, đất nước ta tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn to lớn
.

Một mặt, chúng ta phải khẩn trương khắc phục hậu quả nặng nề của hơn ba thập

kỷ chiến tranh, ổn định đời sống Nhân dân, củng cố chính quyền cách mạng và xây

dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Mặt khác
vừa chiến đấu bảo vệ biên giới, bảo vệ

độc lập, chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời làm tròn nghĩa vụ


quốc tế cao cả giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và tiến hành


công cuộc hồi sinh đất nước.
7

Trong khi kiên cường đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, nước ta còn phải đối mặt với

tình trạng bị bao vây, cấm vận kéo dài từ bên ngoài; đồng thời, cơ chế quản lý tập

trung, quan liêu, bao cấp không còn phù hợp, làm phát sinh nhiều hạn chế, bất cập

trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều kiện đầy khó khăn ấy, Đảng

vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ

nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, từng bước vượt qua trở

lực, nhanh chóng khôi phục kinh tế, giữ vững ổn định chính trị
- xã hội và chủ

quyền quốc gia, tạo nền tảng để chuyển hướng chiến lược trong tư duy phát triển.


Mười năm sau thống nhất (1975
- 1985) là giai đoạn đầy thử thách. Đó là

thời kỳ Đảng ta từng bước tìm tòi con đường đổi mới, tư duy phát triển dần được

hình thành từ thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu cũng

như những khó khăn, hạn chế trong thời kỳ này đã để lại những bài học quý báu,

đặt nền móng tư tưởng và thực tiễn cho công cuộc Đổi mới toàn diện do Đảng

khởi xướng từ năm 1986
.

1.
2. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đưa đất

nước đi lên chủ nghĩa xã hội


-
Một quốc gia có chế độ chính trị độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và tự quyết

định con đường phát triển của mình


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi đã mở ra bước ngoặt vĩ đại

trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Sự kiện ngày 02/9/1945 với sự ra đời của nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa
- Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã

chấm dứt vĩnh viễn chế độ phong kiến, kết thúc hơn 80 năm
bị đô hộ. Từ đây, dân

tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.


Tiếp nối thắng lợi ấy, ngày 06
/01/1946, cuộc Tổng Tuyển cử toàn quốc lần

đầu tiên được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, với 333 đại biểu Quốc

hội được Nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra. Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến

pháp năm 1946, xác lập nền tảng pháp lý nhà nước kiểu mới, khẳng định chính

quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân
- có đầy đủ tư cách đại diện

cho đất nước trên trường quốc tế.


Sau ba thập kỷ tiếp tục trường kỳ kháng chiến, đỉnh cao là Đại thắng mùa

Xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối. Hội

nghị Trung ương 24 (tháng 9
/1975) xác định nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất

nước về mặt nhà nước. Kết quả, ngày 25
/4/1976, hơn 23 triệu cử tri (98,8 % tổng

số) tham gia Tổng Tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước. Tại kỳ họp đầu tiên,

Quốc hội quyết nghị đặt tên nước là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
, Quốc

kỳ
là cờ đỏ sao vàng, Quốc ca “Tiến quân ca”, Quốc huy mang dòng chữ “Cộng

hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”
, quyết định Hà Nội là Thủ đô và đổi tên Thành

phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh.
8

Việc hoàn tất thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo điều kiện chính trị

căn bản để huy động, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, mở đường cho sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới; khẳng định quyền tự quyết của Nhân

dân Việt Nam trên con đường kiên định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã

hội, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, hùng cường.


-
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày

càng sáng tỏ


Ngay từ khi ra đời tháng
02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định

con đường xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được Hội nghị thành lập

Đảng thông qua, nêu mục tiêu chiến lược “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc

lập” để “tiến tới xã hội cộng sản”. Tiếp đó, Luận cương chính trị tháng 10
/1930

chỉ rõ: cách mạng Việt Nam “bỏ qua giai đoạn tư bản, trực tiếp tiến lên con đường

xã hội chủ nghĩa”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh

đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã xóa bỏ ách thực dân, phong kiến, mở

ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
- kỷ nguyên mà Nhân

dân làm chủ xã hội và chính cuộc sống của mình.


Tại Đại hội II (tháng
02/1951), Luận cương cách mạng Việt Nam lần đầu tiên

trình bày những điều kiện và phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua

hai thập kỷ chiến tranh giải phóng và kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, nhận thức đó tiếp

tục được củng cố và phát triển. Bước ngoặt đổi mới toàn diện do Đại hội VI (tháng

12
/1986) khởi xướng đã được lý luận hóa bằng việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa

Mác
-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng tổng kết thực tiễn cách mạng trong

nước,
đã tạo nền tảng cho tư duy mới về thời kỳ quá độ.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do

Đại hội VII (tháng 6
/1991) thông qua và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm

2011
) được Đại hội XI phê chuẩn, là những mốc quan trọng đánh dấu quá trình

hoàn thiện về lý luận. Tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được xác định

trong Cương lĩnh
(bổ sung, phát triển năm 2011) giúp Đảng nhận thức sâu sắc hơn

về dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân; về mục tiêu phát triển

nhanh, bền vững, coi chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế là

trung tâm; về con người và văn hóa là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh của

phát triển; về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với mở rộng quan hệ quốc

tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.


Từ Đại hội VII đến Đại hội XIII, đường lối đổi mới được bổ sung, hoàn thiện,

tiếp tục khẳng định
: kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nền

tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu đổi

mới đồng bộ, toàn diện trên mọi lĩnh vực, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.


Thành quả đổi mới
gần bốn thập kỷ qua chứng minh tính đúng đắn và sáng

tạo của con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng
9

khá cao, đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế và uy tín quốc tế của đất

nước không ngừng nâng cao. Những kết quả ấy khẳng định con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, đồng

thời minh chứng cho sự phát triển ngày càng sáng tỏ của nhận thức lý luận về chủ

nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.


-
Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, kém phát triển, trở

thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình


Giai đoạn 1945
-1954 là thời kỳ đầu tiên xây dựng nền kinh tế mới ở Việt

Nam, đồng thời cũng là giai đoạn gian khổ nhất trong lịch sử phát triển đất nước.

Trong bối cảnh vừa giành được chính quyền, lại phải bước vào cuộc kháng chiến

trường kỳ chống thực dân Pháp, nhiệm vụ xây dựng và cải tạo nền kinh tế được

triển khai trong điều kiện hết sức khó khăn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã

từng bước chuyển đổi nền kinh tế tàn dư của chế độ thực dân, phong kiến vốn lạc

hậu, lệ thuộc
, thành một nền kinh tế dân chủ, độc lập, phục vụ trực tiếp cho sự

nghiệp kháng chiến và kiến quốc.


Từ năm 1955 đến năm 1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai mô

hình kinh tế
- xã hội khác nhau. Ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo thực

hiện các nhiệm vụ kinh tế phù hợp với từng thời kỳ: từ khôi phục và hàn gắn vết

thương chiến tranh (1955
- 1957), đến hoàn thành cải cách ruộng đất, cải tạo quan

hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa (1958
- 1960), rồi chuyển sang phát

triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng hậu phương lớn cho tiền tuyến

miền Nam trong điều kiện chiến tranh khốc liệt (1961
- 1975).

Giai đoạn 1976
- 1985, sau khi đất nước thống nhất, cả nước cùng tiến lên chủ

nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ mà công cuộc cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế

được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nhân

dân cả nước tích cực triển khai kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976
- 1980) và kế hoạch

5 năm lần thứ ba (1981
- 1985). Tuy đã đạt được một số kết quả bước đầu trong khôi

phục sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật, nhưng nhìn chung nền kinh tế

vẫn còn nhiều yếu kém. Những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung, bao cấp kéo dài,

cùng những khó khăn từ bên ngoài đã khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, mất

cân đối, thậm chí có những biểu hiện của khủng hoảng nghiêm trọng.


Trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, từ năm 1986, Đảng ta khởi xướng và

lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế.

Với việc từng bước xóa bỏ cơ chế bao cấp, phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận

hành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Đến năm 1995, các chỉ

tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1991
- 1995) đều hoàn thành và vượt mức, đưa

đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế
- xã hội, tạo đà chuyển sang giai đoạn phát

triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
10

Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh và

bao vây cấm vận, Việt Nam từng bước vươn lên trở thành một quốc gia đang phát

triển có thu nhập trung bình. Tính đến năm 2024, quy mô nền kinh tế Việt Nam xếp

thứ 32 thế giới, thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu

tư nước ngoài. Thành quả ấy là minh chứng sinh động cho tầm vóc, trí tuệ và bản

lĩnh của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong hành trình vượt qua khó khăn, khơi

dậy nội lực, tranh thủ thời cơ, hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững.


-
Văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, dân tộc, khoa học, đại chúng trong

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành nguồn lực phát triển đất nước


Nhận thức của Đảng và Nhà nước, của
Nhân dân về vai trò của văn hóa trong

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đầy đủ và nâng cao.
Sự nghiệp xây dựng và

phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả

quan trọng. Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của

các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của Nhân dân ngày

càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy,

nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn

học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin

đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt

được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình,

dòng họ, cộng đồng... Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp

phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể

và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc

thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và

sinh hoạt văn hóa tâm linh của Nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý nhà nước

về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Đội ngũ

làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do sáng tạo của văn

nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc.


-
Hệ thống chính sách xã hội được xây dựng và ngày càng hoàn thiện

Từ năm 1986 đến nay, cùng với quá trình thực hiện công cuộc đổi mới toàn

diện đất nước, lĩnh vực xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần bảo

đảm ổn định chính trị
- xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân.

Nhận thức và quan điểm của Đảng ta về chính sách xã hội ngày càng được hoàn

thiện và phát triển thành một hệ thống nhất quán, với nội dung cốt lõi là: tăng

trưởng kinh tế luôn phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển vì con

người, đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển.


Chính sách xã hội đúng đắn, nhân văn, vì hạnh phúc của Nhân dân được xác

định không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực to lớn, khơi dậy và phát huy mọi

tiềm năng sáng tạo trong toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao trong quá trình xây

dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta khẳng định rõ trách nhiệm của toàn xã hội, của cả
11

hệ thống chính trị và mọi người dân trong việc thực hiện và giải quyết các vấn đề xã

hội theo hướng xã hội hóa mạnh mẽ, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, bảo

đảm công bằng, hiệu quả và bền vững.


Những định hướng này hướng tới mục tiêu xây dựng một hệ thống an sinh xã

hội toàn diện, bao trùm, bền vững
- nơi mọi người dân đều được bảo đảm an toàn về

thu nhập, việc làm, sức khỏe, giáo dục, nhà ở và các dịch vụ cơ bản, qua đó khẳng

định bản chất ưu việt của chế độ ta và củng cố niềm tin xã hội đối với sự lãnh đạo

của Đảng và quản lý của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước.


-
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ

quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội

chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội, trật tự an toàn xã

hội và môi trường hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển đất nước


Bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu,

thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, là tiền đề căn bản để giữ gìn

thành quả cách mạng, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc phát triển

đất nước nhanh và bền vững. Đây cũng chính là một trong những thành tựu lớn nhất,

toàn diện và bền vững nhất trên lĩnh vực quốc phòng
- an ninh trong suốt 80 năm qua.

Dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống

nhất của Nhà nước và sự đồng lòng của toàn dân tộc, chúng ta đã kiên quyết, kiên trì

giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc

biên giới quốc gia, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Đồng thời, luôn giữ thế chủ

động chiến lược, xử lý linh hoạt, sáng tạo các tình huống phức tạp, nhạy cảm về

quốc phòng
- an ninh; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực

thù địch, phản động, nhất là trên không gian mạng, trong các lĩnh vực tư tưởng, văn

hóa, dân tộc, tôn giáo và quyền con người.


An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; môi trường hòa bình,

ổn định lâu dài cho phát triển đất nước được bảo đảm. Thế trận quốc phòng toàn dân

gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, được xây dựng đồng bộ,

hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở. Năng lực phòng thủ của đất nước, nhất là tại các

khu vực trọng yếu chiến lược, ngày càng được tăng cường. Lực lượng vũ trang nhân

dân không ngừng được củng cố, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, luôn

tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.


Việt Nam kiên định đường lối quốc phòng toàn dân, nền quốc phòng mang

tính hòa bình, tự vệ, không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài

đặt căn cứ quân sự, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan

hệ quốc tế. Đường lối ấy đã nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam, góp

phần củng cố niềm tin chiến lược, tạo dựng hình ảnh một đất nước yêu chuộng

hòa bình, có trách nhiệm và chủ động hội nhập, hợp tác quốc phòng
- an ninh,

bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc bằng sức mạnh tổng hợp. Đặc biệt, trước những
12

thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng (dịch bệnh, thiên tai, biến

đổi khí hậu, khủng bố, an ninh mạng...), chúng ta đã nâng cao năng lực ứng phó,

điều phối hiệu quả các nguồn lực, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống

chính trị và toàn dân để giữ vững ổn định, củng cố niềm tin và tạo nền tảng vững

chắc cho quá trình đổi mới, phát triển đất nước.


Thành tựu nổi bật trong bảo vệ Tổ quốc
suốt 80 năm qua không chỉ là giữ gìn

chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng, mà còn là giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,

bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ, đồng thời tạo thế và lực mới để Việt

Nam hội nhập sâu rộng, nâng cao vị thế
, uy tín trên trường quốc tế, khẳng định bản

lĩnh và trí tuệ của một dân tộc kiên cường, độc lập và sáng tạo trong thời đại mới.


-
Công tác đối ngoại đã góp phần duy trì, củng cố môi trường hòa bình ổn định,

giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa


Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng và Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời hình thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,

mềm dẻo, tranh thủ tối đa sự đồng tình của bạn bè quốc tế để bảo vệ chính quyền

cách mạng non trẻ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,

ngoại giao Việt Nam kiên trì “lấy chính nghĩa thắng cường quyền”, khôn khéo

kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, tạo lập mặt trận dư

luận rộng rãi ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của Nhân dân ta.


Từ đầu thập niên 1950, hoạt động đối ngoại được triển khai có hệ thống trên

ba kênh bổ trợ lẫn nhau: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân

dân. Cơ chế phối hợp liên hoàn ấy đã làm phong phú phương thức vận động quốc

tế, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống

nhất đất nước và sau đó là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bước sang thời

kỳ đổi mới, trong bối cảnh trật tự thế giới biến chuyển sâu sắc, Đại hội VII (1991)

xác lập phương châm “đa phương hóa, đa dạng hóa” với tinh thần: Việt Nam muốn

là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát

triển. Đại hội IX và các Đại hội sau tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc

lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, lấy lợi ích quốc gia
- dân tộc và

hòa bình, hợp tác, phát triển làm điểm tương đồng.


Nhờ kiên định đường lối ấy, Việt Nam đã bình thường hóa và thúc đẩy quan

hệ với các đối tác then chốt
, gia nhập ASEAN, WTO, CPTPP và ký EVFTA,

RCEP…; thiết lập mạng lưới đối tác toàn cầu;
thiết lập và duy trì quan hệ ngoại

giao với 194/194 nước thành viên Liên hợp quốc
; thiết lập và nâng cấp nhiều mối

quan hệ lên đối tác
chiến lược và đối tác toàn diện; thiết lập quan hệ hữu nghị, hợp

tác sâu rộng với 5 nước Ủy viên Thường trực
Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc,

toàn bộ G7 và 17/20 nước G20;
khẳng định vai trò, uy tín trên các diễn đàn đa

phươn
g; tích cực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình; triển khai hiệu quả ngoại
13

giao kinh tế, ngoại giao văn hóa
góp phần quan trọng duy trì môi trường hòa

bình, bảo vệ chủ quyền, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.


1.
3. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngày
02/9/1945, Chủ tịch

Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
, đặt nền móng đầu tiên

cho chế độ nhà nước kiểu mới ở nước ta
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Bản Hiến pháp năm 1946
- bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta -

thể hiện rõ yêu cầu về một nhà nước dân chủ, pháp quyền. Tư tưởng Hồ Chí

Minh về Nhà nước pháp quyền đã được khẳng định ngay từ thời điểm đó: chủ

quyền lập hiến thuộc về Nhân dân; bộ máy nhà nước phải là công cụ thực hiện ý

chí, nguyện vọng của Nhân dân; cán bộ, công chức không được là “ông quan

cách mạng” mà phải là “công bộc của dân”, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm

mục tiêu phục vụ. Pháp luật không phải công cụ trừng trị mà là phương tiện bảo

vệ quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân.


Tư tưởng cốt lõi đó đã được Đảng kế thừa và từng bước hoàn thiện trong suốt

quá trình lãnh đạo cách mạng. Đại hội VII của Đảng (năm 1991) và Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã lần đầu tiên xác định

những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: quyền lực nhà

nước là thống nhất, nhưng có sự phân công rõ ràng giữa lập pháp, hành pháp và tư

pháp. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) chính thức

đưa nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vào văn kiện Đảng.

Các Đại hội IX (2001), X (2006) tiếp tục khẳng định và bổ sung nội dung này.


Đến Đại hội XI (năm 2011), Cương lĩnh (bổ sung, phát triển
năm 2011) đã

xác định: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của

Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;

quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa

ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Những định hướng này được cụ thể

hóa trong Hiến pháp năm 2013 và nhiều đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy

nhà nước.
Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) tiếp tục khẳng định rõ: xây dựng và

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do

Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của

công cuộc đổi mới hệ thống chính trị.


Qua các kỳ Đại hội, cùng với thực tiễn lãnh đạo, nhận thức và tư duy lý

luận của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

ngày càng được bổ sung, phát triển toàn diện và sâu sắc hơn. Theo đó, Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ tiếp thu các giá trị tiến bộ

chung của nhân loại, mà còn mang những đặc trưng phù hợp với điều kiện cụ thể

của Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện đầy đủ những nguyên lý căn bản
14

của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ bản chất, nguyên tắc tổ

chức, cơ cấu vận hành, phân công quyền lực nhà nước đến vai trò của pháp luật

trong xã hội và sự lãnh đạo của Đảng.


Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới

sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng. Nhận thức lý

luận về mô hình nhà nước này ngày càng đầy đủ, thống nhất hơn. Hệ thống pháp

luật được xây dựng ngày càng đồng bộ, thống nhất, bảo đảm tính khả thi trong

thực tiễn. Vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được coi trọng trong hoạt

động của cả hệ thống chính trị và đời sống xã hội.


Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong

thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ ràng và hiệu quả

hơn. Bộ máy nhà nước được tổ chức tinh gọn, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu

quả. Quốc hội tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao chất lượng lập

pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Chính phủ tích

cực, chủ động trong điều hành, tập trung quản lý vĩ mô, cải cách hành chính, tháo

gỡ điểm nghẽn, phục vụ phát triển đất nước.
Cải cách tư pháp được đẩy mạnh;

các cơ quan tư pháp từng bước được hoàn thiện về tổ chức, nâng cao chất lượng

hoạt động, bảo đảm nguyên tắc pháp quyền trong xét xử và thực thi công lý. Các

quyền con người, quyền công dân được hiến định và ngày càng được cụ thể hóa

bằng pháp luật và triển khai hiệu quả trên thực tế. Dân chủ đại diện và dân chủ

trực tiếp tiếp tục được phát huy. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính

trị
- xã hội từng bước đổi mới phương thức hoạt động, đóng góp thiết thực vào

việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân.


Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nguyên tắc

“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đang ngày càng hoàn thiện,

trở thành nền tảng vững chắc góp phần vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử

trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2. Thành tựu của tỉnh Hà Tĩnh


2.1.
Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Hà Tĩnh phát huy tinh thần, hào

khí Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 xây dựng quê hương ngày càng phát triển,

vững mạnh


Sau Cách mạng tháng Tám, trước những khó khăn chồng chất, quân và dân

Hà Tĩnh dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nhanh chóng triển khai và hoàn thành xuất

sắc nhiều nhiệm vụ cách mạng mới. Vừa củng cố xây dựng Đảng bộ chính quyền

cách mạng và các đoàn thể quần chúng, vừa tập trung khắc phục nạn đói, đẩy mạnh

tăng gia sản xuất, phát triển phong trào bình dân học vụ và văn hoá giáo dục, xây

dựng lực lượng vũ trang, đấu tranh với mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù. Chỉ trong

vòng 16 tháng, Hà Tĩnh đã đạt được nhiều kết quả to lớn, chuẩn bị bước vào cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hà Tĩnh đã sớm tổ chức được lực
15

lượng vũ trang và là tỉnh đầu tiên của Liên khu IV nổ súng kháng chiến chống thực

dân Pháp với trận Na Pê ngày 07/9/1945.


Trong 09 năm kháng chiến chống Pháp, quân và dân Hà Tĩnh đã cảnh giác, chủ

động đánh bại các cuộc tập kích, xâm nhập phá hoại của kẻ thù, tiêu biểu là chiến

thắng Nam Bình (Thạch Hà) ngày 20/8/1953 và chiến thắng Nhượng Bạn (Cẩm

Xuyên) ngày 04/9/1953. Trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng hậu phương, thành

công nổi bật đầu tiên là quân và dân tỉnh nhà đã xây dựng được các An toàn khu ở

phía Tây tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho các xưởng sản xuất vũ khí, các xưởng chế

biến hoá chất, dược liệu, xưởng in bạc của Liên khu IV và cả Trung bộ hoạt động,

đáp ứng yêu cầu của các chiến trường, đồng thời là nơi đứng chân của các đơn vị chủ

lực và cơ quan lãnh đạo kháng chiến của Liên khu IV (vào thời kỳ cao điểm, ở các An

toàn khu của Hà Tĩnh có trên 10 vạn cán bộ, công nhân với 12 xưởng sản xuất vũ khí

lớn cùng hàng chục xưởng sản xuất vũ khí vừa và nhỏ hoạt động).


Trong lĩnh vực xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, Nhân dân Hà Tĩnh đã

giành được nhiều thành tích nổi bật. Tháng 02/1949, Hà Tĩnh được Bộ Giáo dục

công nhận là một trong những tỉnh đầu tiên của cả nước hoàn thành thanh toán nạn

mù chữ trên phạm vi toàn tỉnh, được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Độc

lập hạng Nhì và nhiều lần được Người gửi thư khen…


Thực hiện nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến miền Nam trong 09 năm kháng

chiến chống Pháp (từ 1945 - 1954), Hà Tĩnh có 43.780 thanh niên gia nhập quân

đội, 32.600 người đi dân công hoả tuyến, toàn tỉnh đóng góp 27.388.200 ngày công

phục vụ kháng chiến, cung cấp cho các mặt trận 161.830 tấn lương thực, thực

phẩm… Con em Hà Tĩnh luôn phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của quê

hương, chiến đấu kiên cường dũng cảm, tiêu biểu là tấm gương anh hùng liệt sĩ

Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong chiến dịch lịch sử Điện Biên

Phủ (từ ngày 13/3 đến 07/5/1954). Quân và dân Hà Tĩnh đã cùng cả nước đánh bại

thực dân Pháp xâm lược và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với hai nước bạn

Lào và Campuchia.


Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, trong hơn 10 năm hòa bình

(từ năm 1955 - 1965), quân, dân Hà Tĩnh đã đoàn kết nhất trí hoàn thành thắng lợi

nhiều nhiệm vụ cách mạng nặng nề, phức tạp: phát động giảm tô và cải cách ruộng

đất nhằm xoá bỏ ách áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến, đem ruộng đất

về tay nông dân; chống âm mưu và hành động phá hoại của địch; khắc phục hậu quả

chiến tranh và thiên tai, khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá. Tiếp đó là thực hiện

thắng lợi công cuộc cải tạo XHCN và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của

CNXH. Trong quá trình đó, Hà Tĩnh tuy vấp phải những sai lầm, khuyết điểm, nhất là

trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, nhưng cán bộ, đảng viên và quần

chúng Nhân dân đã kịp thời khắc phục sửa chữa, đoàn kết, thống nhất, nhanh chóng

ổn định tình hình và tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tỉnh nhà tiến lên. Ngày
16

15/6/1957, Nhân dân Hà Tĩnh vinh dự được đón Bác Hồ về thăm tại thị xã Hà Tĩnh.

Những lời dạy bảo ân cần và tình cảm nồng ấm của Bác đã tiếp thêm sức mạnh, củng

cố niềm tin sắt son đối với Đảng, với cách mạng, cổ vũ Nhân dân Hà Tĩnh vượt qua

mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra.


Trong 10 năm tiến hành cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, xây dựng

hậu phương, chi viện cho tiền tuyến kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (từ năm 1965 -

1975), tỉnh Hà Tĩnh có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng: "hậu phương của tiền

tuyến miền Nam, tiền tuyến của hậu phương miền Bắc". Mặc dù phải đương đầu với

những thử thách ác liệt, chịu đựng những tổn thất, hy sinh to lớn, nhưng dưới sự lãnh

đạo của Đảng bộ, quân và dân Hà Tĩnh đã nêu cao ý chí tự lực tự cường, vươn lên

mạnh mẽ với tinh thần "Xe chưa qua, nhà không tiếc", "Thóc không thiếu một cân,

quân không thiếu một người", "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ

xâm lược". Toàn tỉnh đã nở rộ phong trào "Thanh niên ba sẵn sàng", "Phụ nữ bđảm

đang", sản xuất giỏi, chiến đấu và phục vụ chiến đấu giỏi. Trong cuộc chiến đấu

chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, quân và dân Hà Tĩnh đã bắn rơi 267 máy

bay, bắn chìm và bắn cháy 34 tàu chiến, tàu biệt kích của địch, đập tan nhiều âm mưu

phá hoại của kẻ thù. Với phong trào thi đua bắn rơi máy bay địch, nhiều đơn vị đã nổi

lên như Tiểu đoàn 8 pháo cao xạ đã kiên cường đánh địch bảo vệ tuyến đường số 1,

bắn rơi 07 máy bay Mỹ; các đơn vị nữ dân quân Kỳ Phương (Kỳ Anh), Thạch Đỉnh

(Thạch Hà) và lão dân quân Kỳ Tiến (Kỳ Anh) đều bắn rơi máy bay Mỹ… Nhiều địa

danh, nhiều chiến sỹ đã đi vào lịch sử như là huyền thoại với những chiến công vang

dội. Tiêu biểu như: Núi Nài, Đèo Ngang, chỉ trong ngày 26/3/1965, quân và dân Thị

xã Hà Tĩnh đã bắn rơi 09 máy bay, quân và dân Kỳ Anh bắn rơi 03 máy bay của

Mỹ…; Ngã ba Đồng lộc huyền thoại, ghi danh Tiểu đội thanh niên xung phong

"Mười cô gái Đồng Lộc" (thuộc Đại đội 552, Tổng đội 55) "sống bám cầu, bám

đường, chết kiên cường dũng cảm" đã hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình cho cách

mạng; Anh hùng La Thị Tám, một mình một trận địa, bám trụ trên đỉnh núi Mòi, giữa

mưa bom bão đạn đếm từng quả bom rơi để đánh dấu vào bản đồ cho đồng đội…


Từ năm 1965 - 1975, toàn tỉnh có 92.913 thanh niên nhập ngũ (chiếm 10%

dân số toàn tỉnh lúc đó), 334.128 lượt người đi dân công hoả tuyến, 10.636 thanh

niên xung phong… Để giành lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, 13.024 người con

của Hà Tĩnh đã anh dũng hy sinh trên các chiến trường. Trong số đó, sự hy sinh của

10 cô gái thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc (ngày 24/7/1968) là một

minh chứng điển hình cho lòng quả cảm, vì nước quên thân của bao thế hệ người Hà

Tĩnh. Rất nhiều gia đình có con độc nhất, hoặc 02 con, 03 con, 04 con là liệt sĩ.

Nhiều tập thể và cá nhân được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng

vũ trang, nhiều bà mẹ được phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng. Tất cả

các huyện, thị xã đều được phong tặng là đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang

Nhân dân. Hàng chục vạn cán bộ, chiến sĩ, dân quân tự vệ và Nhân dân được Đảng,
17

Nhà nước tặng thưởng các loại Huân, Huy chương cao quý. Chặng đường 10 năm

đó là một trong những thời kỳ lịch sử vẻ vang, oanh liệt của tỉnh Hà Tĩnh.


Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ Hai, Quốc hội khoá V (ngày 27/12/1975) về

việc điều chỉnh một số đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, từ năm 1976, tỉnh

Hà Tĩnh hợp nhất với tỉnh Nghệ An thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Trải qua 2 kỳ kế hoạch

xây dựng CNXH (từ năm 1976 - 1985), tình hình kinh tế - xã hội vùng Hà Tĩnh có

nhiều chuyển biến đáng kể. Cơ sở vật chất, kỹ thuật trong các ngành kinh tế, nhất là

trong nông nghiệp được đầu tư xây dựng, nâng cấp, đặc biệt, sau 03 năm phấn đấu

quyết liệt, ngày 26/3/1979, công trình đại thủy nông Kẻ Gỗ hoàn thành. Tỉnh ủy, Ủy

ban nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh đã mở hội mừng công trọng thể. Từ đây, 30 vạn Nhân

dân vùng hạ du hồ Kẻ Gỗ thoát cảnh hạn hán. Kẻ Gỗ không chỉ có ý nghĩa về kinh tế

mà còn là một công trình văn hóa, thể hiện sự đoàn kết, sức mạnh tổng hợp của lòng

dân. Hoạt động văn hoá, giáo dục, thể thao… có nhiều chuyển biến cả về chiều rộng

lẫn chiều sâu; tình hình chính trị - xã hội ổn định.


Tuy nhiên, do những yếu kém, khó khăn về cả khách quan và chủ quan, cũng

như tình hình chung của cả nước, đời sống của các tầng lớp Nhân dân vẫn gặp nhiều

khó khăn…


Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm

1986), trong 5 năm từ 1986 - 1991, công cuộc đổi mới ở Hà Tĩnh đã giành được

những thành tựu có ý nghĩa.


Việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế trong nông, lâm, ngư nghiệp đã phát

huy được tác dụng, mang lại hiệu quả rõ rệt. Năng suất, sản lượng đều tăng. Sản xuất

nông sản hàng hoá đều phát triển, nhất là lạc, mía, chè… Kinh tế thuỷ hải sản có

chuyển biến cả về quy mô sản xuất, hình thức tổ chức, hiệu quả kinh tế, nhất là tổ

chức lại sản xuất và nuôi trồng thuỷ sản. Một số mặt hàng công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp có sự tăng trưởng nhanh hơn thời kỳ trước, giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp trong 5 năm (từ 1986 - 1991) tăng bình quân hàng năm 17,76%... Cơ

sở hạ tầng như giao thông, điện, trường học… được chú ý đầu tư xây dựng.


Các lĩnh vực văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ. Quy mô giáo dục phát triển

nhanh hơn trước. Phong trào văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể thao có nhiều khởi

sắc, nhất là tổ chức được nhiều hoạt động có ý nghĩa nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100

Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.


Mặc dù tình hình thế giới và trong nước cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 diễn

biến phức tạp, song Hà Tĩnh vẫn đảm bảo tốt quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã

hội; tình hình chính trị, xã hội ổn định, góp phần tạo điều kiện để thúc đẩy phát triển

kinh tế - xã hội.


2.2
. Đảng bộ Hà Tĩnh - chặng đường sau gần 35 năm tái lập tỉnh, tiếp tục

thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế
18

Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VIII, từ tháng 8/1991, Hà

Tĩnh được tái lập. Sau ngày tái lập, Hà Tĩnh đứng trước những khó khăn về kinh tế, xã

hội: cơ sở hạ tầng thấp kém, sản xuất hàng hoá chậm phát triển, thu nhập bình quân đầu

người thấp (69 USD); nhiều vấn đề xã hội đặt cần được tập trung giải quyết…


Trong 5 năm 1991 - 1995, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nghị

quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh khoá XIII, với tinh thần tự lực, tự cường, năng

động, sáng tạo, cùng với sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Trung ương, Đảng bộ và

Nhân dân Hà Tĩnh đã giành được nhiều thành quả quan trọng. Nhịp độ tăng trưởng

(GDP) bình quân hàng năm đạt 11,3%, nâng thu nhập bình quân đầu người đạt 149

USD (1995).


Trong 5 năm 1996 - 2000, tốc động tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm

đạt 7,05%; thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 1,5 lần, tỷ trọng nông, lâm, ngư

nghiệp trong GDP từ 63,5% xuống còn 51%, tăng giá trị công nghiệp, xây dựng từ

10,7% lên 14%, dịch vụ từ 25,8% lên 35%; sản xuất lương thực đạt 46 vạn tấn, bình

quân đầu người 370kg, mức cao nhất trong 6 tỉnh khu IV.


Từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (2006 - 2010), Hà Tĩnh thực sự

chuyển mình, mục tiêu “xây dựng Hà Tĩnh từ một tỉnh nông nghiệp sớm trở thành

tỉnh có công nghiệp - dịch vụ phát triển” đạt nhiều kết quả tích cực, kinh tế phát

triển nhanh; văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực; quốc phòng - an ninh được đảm

bảo; quan hệ hợp tác đối ngoại ngày càng mở rộng, phát huy hiệu quả; công tác xây

dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được tăng cường.


Nhờ thu hút đầu tư đột phá trong lĩnh vực công nghiệp đã tạo “cú hích” đưa

kinh tế Hà Tĩnh tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm, riêng giai đoạn 2011-

2015 tăng trưởng bình quân trên 18%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa.


Nhi
ệm kỳ 2015 - 2020, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng với sự n lực

l
ớn, quyết tâm cao của cả h thống chính trị và toàn dân, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh

Hà Tĩnh đã giành đư
ợc kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực.

T
ốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6,75% (thuộc

nhóm 20 tỉnh, thành phố đứng đầu cả nước)
. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng (tỷ

trọng nông nghiệp còn 12,2%, công nghiệp - xây dựng 45,5%, dịch vụ 42,3%).


Toàn tỉnh có trên 7.500 doanh nghiệp, gần 6 vạn hộ kinh doanh; thu hút được


trên 1.300 dự án đầu tư trong và ngoài nước với tổng vốn đăng ký trên 370.000 tỷ


đồng tương đương trên 16 tỷ USD; là tỉnh đứng thứ 9 cả nước về thu hút đầu tư trực


tiếp nước ngoài (FDI) với trên 70 dự án có tổng vốn đầu tư gần 13 tỷ USD. Hà Tĩnh


có 17 nước và vùng lãnh thổ vào đầu tư. Tỉnh có 02 khu kinh tế (Khu kinh tế Vũng


Áng, KKT Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo); 25 khu, cụm công nghiệp; có Cụm cảng


nước sâu Vũng Áng - Sơn Dương với 59 cầu cảng được Thủ tướng Chính phủ phê


duyệt quy hoạch là một trong ba đầu mối giao thương biển quốc tế của Việt Nam
19

thiết kế cho tàu có tải trọng lên đến 20 - 30 vạn tấn.
Theo định hướng phát triển, Khu

kinh t
ế Vũng Áng được quy hoạch xây dựng trung tâm logistics tại Vũng Áng - Sơn

Dương là trung tâm Logistics h
ạng I cấp quốc gia và quốc tế.

T
rong thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh Hà

Tĩnh đã có nhi
ều cách làm sáng tạo, đạt được những kết quả tích cực, trở thành

phong trào sâu r
ộng, bền vững của toàn dân.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển toàn diện. Giáo dục - đào tạo đạt kết quả


nổi bật, nhất là tỷ lệ học sinh giỏi quốc gia. Thể thao đạt nhiều thành tích cao trong


các giải đấu trong nước, quốc tế. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được


tăng cường. Công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội đạt được kết quả rõ nét;


tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,53%, gần bằng bình quân cả nước. Hợp tác đối ngoại tiếp


tục phát huy hiệu quả. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững...


Công tác xây d
ựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được tăng

ờng và đi vào chiều sâu. Tỉnh đã tập trung thực hiện có hiệu quả các chủ trương,

nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, trọng tâm là thực hiện Nghị quyết Trung ương


4 khóa XI, XII gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập, làm theo tư


tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh;
Ngh quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa

XII v
sắp xếp, tinh gọn bộ máy. Đến hết năm 2019, tỉnh đã hoàn thành việc sắp xếp

80 đơn vị hành chính cấp xã (theo tinh thần Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị),


hình thành 34 xã mới, giảm 46 xã. Toàn tỉnh có 216 xã; các đơn vị hành chính cấp


xã sau sáp nhập hoạt động ổn định và đã tổ chức thành công đại hội đảng các cấp


nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX...


Nhiệm kỳ 2020 - 2025, triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh

lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025 trong bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều biến

động, phức tạp, khó lường với nhiều diễn biến mới chưa có tiền lệ. Trong nước, nền

kinh tế gặp nhiều khó khăn, bất ổn do tác động kéo dài của dịch Covid-19, xung đột

Nga - Ucraina, Israel
- Hamas, các cuộc xung đột quân sự - chính trị ở Bắc Phi,

chiến tranh thương mại Mỹ - Trung... tăng trưởng kinh tế, thương mại, đầu tư toàn

cầu suy giảm, giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu và yếu tố đầu vào sản xuất tăng, an

ninh năng lượng bất ổn… Trong tỉnh, cả hệ thống chính trị vừa tập trung khắc phục

hậu quả sự cố môi trường biển năm 2016, thiên tai, lũ lụt năm 2020, phòng chống

dịch Covid-19; vừa phục hồi và phát triển kinh tế, triển khai khối lượng lớn các mục

tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ
, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức nhưng

Hà Tĩnh đã n
lực phấn đấu và đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.

Kinh t
ế tiếp tục tăng trưởng khá, trung bình giai đoạn 2021 - 2025 ước đạt 6,3% (6

tháng đ
ầu năm ước đạt 7,9%); thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước, giai đoạn

2021
- 2025 đạt trên 70.000 tỷ đồng (6 tháng đầu năm 2025 đạt 8.006 tỷ đồng, xếp

th
3 Bắc Trung Bộ); kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư; môi trường đầu tư, kinh

doanh không ng
ừng được cải thiện. Đến nay, 100% cấp xã và cấp huyện đạt chuẩn
20

và hoàn thành nhi
ệm vụ xây dựng Nông thôn mới (02 huyện đạt chuẩn Nông thôn

m
ới nâng cao).

Các lĩnh v
ực văn hóa - xã hội có chuyển biến tích cực; chất lượng giáo dục, y

t
ế được nâng lên; an sinh xã hội được bảo đảm, nhất là công tác giảm nghèo, chăm

lo cho đ
ối tượng chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn. Quốc phòng - an ninh

được giữ vững, trật tự an toàn xã hội ổn định. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống

chính trị được triển khai đồng bộ, góp phần củng cố nền tảng chính trị và tạo động

lực cho sự phát triển bền vững của tỉnh.


Công
tác xây dựng Đảng các t chức trong h thống chính tr được tập

trung
lãnh đạo, ch đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả,

nh
ất là các chủ trương, kết luận, hướng dẫn của Trung ương về sắp xếp, tinh gọn tổ

ch
ức bộ máy, đơn v hành chính và t chức chính quyền địa phương hai cấp. Sau

s
ắp xếp Hà Tĩnh giảm từ 209 đơn v hành chính cấp xã xuống còn 69 đơn v (gồm

09 phư
ờng và 60 xã), giảm 140 đơn vị. Công tác chuẩn bị đại hội các đảng bộ trực

thu
ộc, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đang được tập trung thực hiện một cách kỹ

ỡng, bài bản, bảo đảm đúng quy trình, quy định. Theo kế hoạch, đại hội cấp xã sẽ

hoàn thành trong tháng 8/2025, đ
ại hội cấp tỉnh hoàn thành trong tháng 10/2025.

III.
PHÁT HUY THÀNH QUẢ, KINH NGHIỆM TRONG 80 NĂM

QUA, TI
ẾP TỤC ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN, ĐỒNG BỘ CÔNG CUỘC ĐỔI

M
ỚI, ĐƯA ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM VÀ TỈNH HÀ TĨNH VỮNG VÀNG

TI
ẾN VÀO KỶ NGUYÊN MỚI, KỶ NGUYÊN GIÀU MẠNH, VĂN MINH,

TH
ỊNH VƯỢNG

1.
Nhiệm vụ trọng tâm của cả nước

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực triển khai Cương lĩnh (bổ

sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013
, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

và các nghị quyết Trung ương mới nhất
- trọng tâm là “ba đột phá chiến lược, sáu

nhiệm vụ trọng tâm, mười hai nhóm giải pháp lớn”
- nhằm đẩy mạnh toàn diện,

đồng bộ công cuộc đổi mới; kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất,

toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;

duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phát huy tối đa mọi nguồn lực, động lực
, đặc

biệt là khoa học
- công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để phát triển nhanh,

bền vững; không ngừng nâng cao đời sống Nhân dân; rút ngắn khoảng cách với các

nước tiên tiến trong khu vực, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế; phấn đấu

sớm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và vươn lên tầm

nước công nghiệp hiện đại vào giữa thế kỷ XXI.


B
ước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, văn minh,

thịnh vượng của dân tộc
- với cơ hội và thách thức đan xen. Phát huy bài học quý

báu từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, toàn Đảng, toàn dân, toàn

quân ta đoàn kết
một lòng, quyết tâm xây đất nước phồn vinh, hạnh phúc, hiện
21

thực hóa Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ: “... xây dựng một nước Việt Nam hòa

bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh...”
. Để biến khát vọng đó thành

hiện thực,
cần kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới; kiên định mục tiêu độc lập


dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc


đổi mới; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. Gắn kết chặt chẽ tổng kết thực


tiễn, nghiên cứu lý luận với xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương


của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước để xây dựng và bảo vệ vững


chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời
cần giải phóng toàn bộ sức

sản xuất, khai thông mọi nguồn lực, phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh của đất

nước, trong đó:


-
Tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, tháo gỡ các điểm

nghẽn, nút thắt, khơi thông, huy động mọi nguồn lực tạo động lực phát triển bứt


phá đất nước; bảo đảm sự đồng bộ, hài hòa giữa đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh


tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với hoàn thiện thể chế chính trị; với


đổi mới, hoàn thiện thể chế xã hội, thể chế văn hóa và thể chế bảo vệ môi trường


sinh thái, thể chế quốc phòng, an ninh và đối ngoại đáp ứng yêu cầu phát triển


nhanh, bền vững đất nước.


-
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong

sạch, vững mạnh toàn diện; đổi mới đồng bộ phương thức và nâng cao năng lực lãnh


đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nhất là xây dựng Nhà nước


pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tập trung xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống


chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng đội


ngũ cán bộ, đảng viên các cấp, nhất là cấp chiến lược thật sự có đức, có tài, ngan
g

tầm nhiệm vụ. Tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng và trong Nhà nước; tiếp


tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; củng cố niềm


tin, sự gắn bó
của Nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

-
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng sản


xuất mới; đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công


nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo làm động


lực chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của


nền kinh tế. Đẩy mạnh xây dựng và thúc đẩy có hiệu quả chuyển đổi số, chuyển


đổi xanh, chuyển đổi năng lượng. Phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần


hoàn. Xây dựng chính phủ số, xã hội số.


-
Tập trung xây dựng, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát

triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng bộ với xây dựng và hoàn thiện


thể chế khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo nền tảng cho phát triển lực


lượng sản xuất mới, hiện đại; đẩy mạnh đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng
22

cao, trình độ cao, tạo động lực then chốt nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,


năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế.


-
Phát triển nguồn lực con người, phát triển văn hóa thực sự trở thành nền

tảng, sức mạnh nội sinh, động lực to lớn
cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất

nước. Tiếp tục đổi mới đồng bộ, căn bản, toàn diện, hiện đại hóa và nâng cao chất


lượng hệ thống giáo dục quốc dân. Đẩy mạnh đổi mới phương thức quản lý phát


triển xã hội bền vững, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện tốt các


chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.


-
Đẩy mạnh triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả công tác đối ngoại; nâng

tầm và phát huy vai trò đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân


trong việc kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác, tạo điều kiện


thuận lợi cho phát triển đất nước. Tiếp tục xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân,


Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo vệ vững chắc độc


lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của đất nước.


2.
Nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh Hà Tĩnh

-
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,

vững mạnh
. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc

lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ của Đảng.


Chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo


đức và cán bộ. Thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, khóa XII về


xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng,


đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các quy định về trách nhiệm n
êu gương của cán

bộ, đảng viên.


-
Tiếp tục vận hành mô hình chính quyền địa phương 02 cấp hoạt động hiệu

lực, hiệu năng, hiệu quả
, phục vụ tốt. Gắn chặt các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi

dưỡng, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu


của tổ chức đảng
, trước hết là chất lượng cấp ủy, chất lượng cán bộ, đảng viên và sinh

hoạt Đảng. Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc của Đảng. Cụ thể hóa cơ chế kiểm


soát quyền lực, kiên quyết chống chạy chức, ch
ạy quyền trong công tác cán bộ.

-
Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của

Đảng và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.
Phát huy rõ hơn

vai trò các đoàn công tác của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các cấp ủy đảng, Mặt trận Tổ

quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông, cán bộ, đảng viên và

Nhân dân, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện, đấu

tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả

công tác dân vận, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị
- xã hội;

tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa


Đảng với Nhân dân.
23

-
Tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tích cực thực hiện mục tiêu chuyển

đổi xanh, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn; đẩy mạnh phát triển công nghiệp,

nông nghiệp và du lịch, dịch vụ; tập trung nâng cao chất lượng các tiêu chí nông

thôn mới.
Đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang

chiều sâu, trên cơ sở đột phá ứng dụng khoa học
- công nghệ, đổi mới sáng tạo và

chuyển đổi số; ứng dụng thành tựu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát


triển kinh tế số, “kinh tế xanh”, kinh tế tuần hoàn, các ngành công nghiệp chế biến,


chế tạo, công nghiệp hỗ trợ sau thép, dịch vụ cảng biển và logistics; thu hút đầu tư


các dự án năn
g lượng mới, năng lượng tái tạo.

-
Tập trung chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh của

nền kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tăng cường thu hút đầu tư, nâng tỉ lệ


lấp đầy các khu, cụm công nghiệp; xây dựng Khu Kinh tế Vũng Áng thực sự trở thành


khu kinh tế đa chức năng. Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp; tiếp tục triển khai


mạnh mẽ, đồng bộ xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh, tình hình mới. Phát triển


dịch vụ cảng biển và hậu cần (logistics) trở thành trụ cột kinh tế quan trọng; nâng cao


chất lượng dịch vụ, nguồn nhân lực, phát triể
n đa dạng các sản phẩm du lịch.

-
Phát triển các thành phần kinh tế; thúc đẩy phát triển mạnh kinh tế tư nhân,

khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; tạo môi

trường thuận lợi, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Thực hiện hiệu quả các chủ trương,

nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần. Tiếp tục thực hiện thoái

vốn nhà nước, cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh

nghiệp nhà nước. Thúc đẩy phát triển mạnh kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết

số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, nhất là trong các lĩnh vực, tiềm năng, lợi thế của tỉnh

như công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, du lịch… tạo lập môi trường

đầu tư, kinh doanh thuận lợi, nhất là giải quyết nhanh thủ tục hành chính.


-
Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xây dựng kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội đồng bộ; tăng cường thu hút đầu tư, đẩy nhanh tiến độ, phát

huy hiệu quả các dự án. Tập trung nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn then

chốt, các công trình, dự án trọng điểm, có sức lan tỏa, tạo động lực phát triển. Ưu

tiên huy động nguồn lực đầu tư hạ tầng giao thông kết nối đến hạ tầng giao thông

quốc gia, khu kinh tế Vũng Áng, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các khu du

lịch, dịch vụ ven biển; phát triển các trung tâm logistics, các khu bến cảng Vũng

Áng - Sơn Dương; chủ động phối hợp bộ, ngành Trung ương đẩy nhanh tiến độ

đường sắt cao tốc Bắc - Nam, đường sắt Lào - Vũng Áng, đường bộ cao tốc Vũng

Áng - cửa khẩu Cha Lo. Nâng cao chất lượng đô thị hóa; phát triển các đô thị trung

tâm gắn với “ba hành lang kinh tế”.


-
Chú trọng đầu tư lĩnh vực văn hóa, xây dựng và khơi dậy các giá trị chuẩn

mực của con người Hà Tĩnh trong giai đoạn mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới căn


bản, toàn diện giáo dục
- đào tạo, thực hiện hiệu quả các chính sách đào tạo nguồn
24

nhân lực. N
âng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân. Chăm

lo thực hiện tốt chính sách đối với người có công, công tác giảm nghèo, đặc biệt chú

trọng các xã miền núi, ven biển; đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần cho Nhân dân.


-
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số

trên các lĩnh vực. Tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải

pháp theo Chương trình hành động số 42-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết số 57-

NQ/TW của Bộ Chính trị; phấn đấu hoàn thành 100% khung kiến trúc chính quyền

số tỉnh Hà Tĩnh phiên bản 4.0 trước năm 2027 đảm bảo đồng bộ; tỷ lệ sử dụng dịch

vụ công trực tuyến đạt trên 80%. Ưu tiên nguồn lực đầu tư, hoàn thiện hạ tầng khoa

học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, trọng tâm là chính quyền số, tạo

động lực thúc đẩy kinh tế số, xã hội số phát triển. Ứng dụng hiệu quả trí tuệ nhân

tạo (AI) vào công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của cơ quan Đảng, Nhà nước các

cấp trên địa bàn...


-
Triển khai thực hiện hiệu quả chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược đảm

bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế

trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Giữ vững an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh,

bền vững với ba trụ cột “kinh tế - xã hội - môi trường”. Tăng cường và nâng cao

năng lực, hiệu quả hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực.


-
Lãnh đạo, chỉ đạo học tập, quán triệt, tuyên truyền kịp thời, sâu rộng; xây

dựng chương trình hành động,
kế hoạch cụ thể, tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu

quả Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX,
Nghị quyết Đại hội lần

thứ XIV của Đảng.


***


Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám
thành công và Quốc khánhớc

C
ộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bầu không khí toàn Đảng, toàn dân,

toàn quân nô nức thi đua chào mừng Đại hội XIV của Đảng là dịp để chúng ta

khắc sâu
hơn nữa ý nghĩa lịch sử to lớn của những ngày mùa thu năm 1945 - khi

dân tộc ta vùng lên giành lấy quyền làm người, làm chủ đất nước. Đó cũng là lời

nhắc nhở về trách nhiệm hôm nay: tiếp nối tinh thần bất khuất, khát vọng độc lập
-

tự do
- hạnh phúc của cha ông, hun đúc bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, đổi mới

mạnh mẽ và sáng tạo không ngừng, quyết tâm hiện thực hóa khát vọng dựng xây

một nước Việt Nam phát triển toàn diện và bền vững trong kỷ nguyên mớ

binh-luan

chua-co-binh-luan-nao