ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và
Quốc khánh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2025)
(Kèm theo Hướng dẫn số 20- HD/BTGDVTU, ngày 22/7/2025 của Ban Tuyên giáo
và Dân vận Tỉnh ủy)
-----
I. CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 - SỰ KIỆN VĨ ĐẠI TRONG
LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM
1. Bối cảnh lịch sử
Cuối năm 1944, đầu năm 1945, cục diện thế giới thay đổi nhanh chóng.
Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc với ưu thế áp đảo nghiêng
về phe Đồng minh. Tại châu Âu, Hồng quân Liên Xô phối hợp với quân đội các
nước Anh, Mỹ, Pháp, Canađa… liên tiếp giành thắng lợi, giải phóng nhiều quốc
gia và tiến vào Béclin. Ngày 09/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến
tranh ở châu Âu kết thúc. Tại châu Á - Thái Bình Dương, quân đội phát xít Nhật
rơi vào thế bị bao vây, uy hiếp nặng nề. Ngày 08/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với
Nhật, nhanh chóng đánh bại đạo quân Quan Đông, giải phóng vùng Đông Bắc
Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Ngày 14/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô
điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai chính thức chấm dứt.
Tình hình ấy mở ra một bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng
Việt Nam. Trung ương Đảng nhận định: đây là thời cơ “ngàn năm có một” để Nhân
dân ta vùng lên giành lại độc lập. Trong khi quân Đồng minh chưa kịp vào Đông
Dương làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, thực dân Pháp đã quay trở lại, tìm cách
dựa vào Đồng minh, còn các thế lực khác cũng bắt đầu can thiệp; nếu không chớp
lấy cơ hội này, vận hội dân tộc có thể bị bỏ lỡ.
Ngay từ ngày 09/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp khẩn, ra
chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước rộng khắp. Ngày 12/3/1945,
Trung ương ban hành Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”,
khẳng định: “Đây là thời cơ tốt để Nhân dân ta vùng lên giành độc lập”.
Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ,
thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân. Ngày 16/4,
Tổng bộ Việt Minh chỉ đạo thành lập các Ủy ban dân tộc giải phóng từ Trung ương
đến địa phương. Đầu tháng 5/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên
Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo toàn quốc. Ngày 04/6/1945, Khu Giải
phóng Việt Bắc chính thức được thành lập. Từ giữa năm 1945, cao trào kháng Nhật
cứu nước lan rộng, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang,
khởi nghĩa từng phần diễn ra mạnh mẽ tại nhiều địa phương trên cả nước.
2. Diễn biến
2
Khi thời cơ cách mạng đã chín muồi, ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa
toàn quốc được thành lập và ngay trong ngày đã ra Quân lệnh số 1, phát động tổng
khởi nghĩa trên toàn quốc.
Ngày 16/8/1945, Quốc dân đại hội họp tại Tân Trào thông qua Mười chính
sách lớn của Mặt trận Việt Minh, phê chuẩn Lệnh tổng khởi nghĩa, thống nhất
quốc kỳ nền đỏ sao vàng năm cánh, chọn “Tiến quân ca” làm quốc ca, và cử ra Ủy
ban Giải phóng dân tộc Việt Nam (tức là Chính phủ Lâm thời cách mạng Việt
Nam) do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Cùng thời điểm đó, Người gửi thư kêu
gọi toàn dân, nhấn mạnh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn
quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Từ ngày 14/8/1945, tại nhiều địa phương, các cấp bộ Đảng và Việt Minh đã
chủ động phát động khởi nghĩa trước khi nhận được lệnh chính thức, căn cứ vào
tình hình cụ thể và tinh thần Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra ở khắp nơi: từ các huyện, xã vùng đồng bằng Bắc Bộ
đến các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa…
Chiều 16/8/1945, theo chỉ đạo của Ủy ban Khởi nghĩa, một đơn vị Giải phóng
quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy xuất phát từ Tân Trào, tiến về giải phóng
thị xã Thái Nguyên - mở màn cho chiến dịch quân sự hỗ trợ tổng khởi nghĩa. Cùng lúc,
lực lượng vũ trang Chiến khu Trần Hưng Đạo phối hợp đánh chiếm các địa phương
như Hải Ninh, Quảng Yên, Kiến An; ở miền Trung, lực lượng cách mạng tại Quảng
Ngãi chiếm dinh tỉnh trưởng ngay trong đêm 16/8 - chính quyền tay sai sụp đổ.
Ngày 18/8/1945, các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam là
những địa phương đầu tiên giành được chính quyền tại tỉnh lỵ - tạo khí thế bừng
bừng khắp cả nước.
Tại Hà Nội, chiều 17/8/1945, hàng vạn quần chúng từ nội, ngoại thành
tham gia mít tinh lớn tại Nhà hát Lớn, rồi tuần hành qua các phố trung tâm, hô
vang khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh!”, “Việt Nam độc lập!”. Ngày 18/8/1945, cờ
đỏ sao vàng rực rỡ trên nhiều tuyến phố chính. Đỉnh cao là ngày 19/8/1945: cuộc
tổng khởi nghĩa nổ ra với khí thế áp đảo. Các đội tự vệ chiến đấu và quần chúng
cách mạng chiếm phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Cảnh sát, Sở Bưu điện, Trại Bảo an
binh…; chính quyền Bảo Đại - Trần Trọng Kim tan rã. Đêm 19/8/1945, chúng ta
hoàn toàn làm chủ Thủ đô.
Ở Huế, ngày 20/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Từ ngày
21/8/1945, hàng loạt cuộc biểu tình thị uy diễn ra, tạo thế áp đảo. Ngày
23/8/1945, hàng vạn người tiến vào thành phố, chiếm các công sở trọng yếu và
giành chính quyền trong hòa bình.
Tại Sài Gòn - Gia Định, Xứ ủy Nam Kỳ ấn định ngày khởi nghĩa là
25/8/1945. Sáng hôm đó, các đoàn công nhân, nông dân, thanh niên từ Gia Định,
Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho đổ về trung tâm thành phố. Quần chúng chiếm
Khi thời cơ cách mạng đã chín muồi, ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa
toàn quốc được thành lập và ngay trong ngày đã ra Quân lệnh số 1, phát động tổng
khởi nghĩa trên toàn quốc.
Ngày 16/8/1945, Quốc dân đại hội họp tại Tân Trào thông qua Mười chính
sách lớn của Mặt trận Việt Minh, phê chuẩn Lệnh tổng khởi nghĩa, thống nhất
quốc kỳ nền đỏ sao vàng năm cánh, chọn “Tiến quân ca” làm quốc ca, và cử ra Ủy
ban Giải phóng dân tộc Việt Nam (tức là Chính phủ Lâm thời cách mạng Việt
Nam) do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Cùng thời điểm đó, Người gửi thư kêu
gọi toàn dân, nhấn mạnh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn
quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Từ ngày 14/8/1945, tại nhiều địa phương, các cấp bộ Đảng và Việt Minh đã
chủ động phát động khởi nghĩa trước khi nhận được lệnh chính thức, căn cứ vào
tình hình cụ thể và tinh thần Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra ở khắp nơi: từ các huyện, xã vùng đồng bằng Bắc Bộ
đến các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa…
Chiều 16/8/1945, theo chỉ đạo của Ủy ban Khởi nghĩa, một đơn vị Giải phóng
quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy xuất phát từ Tân Trào, tiến về giải phóng
thị xã Thái Nguyên - mở màn cho chiến dịch quân sự hỗ trợ tổng khởi nghĩa. Cùng lúc,
lực lượng vũ trang Chiến khu Trần Hưng Đạo phối hợp đánh chiếm các địa phương
như Hải Ninh, Quảng Yên, Kiến An; ở miền Trung, lực lượng cách mạng tại Quảng
Ngãi chiếm dinh tỉnh trưởng ngay trong đêm 16/8 - chính quyền tay sai sụp đổ.
Ngày 18/8/1945, các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam là
những địa phương đầu tiên giành được chính quyền tại tỉnh lỵ - tạo khí thế bừng
bừng khắp cả nước.
Tại Hà Nội, chiều 17/8/1945, hàng vạn quần chúng từ nội, ngoại thành
tham gia mít tinh lớn tại Nhà hát Lớn, rồi tuần hành qua các phố trung tâm, hô
vang khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh!”, “Việt Nam độc lập!”. Ngày 18/8/1945, cờ
đỏ sao vàng rực rỡ trên nhiều tuyến phố chính. Đỉnh cao là ngày 19/8/1945: cuộc
tổng khởi nghĩa nổ ra với khí thế áp đảo. Các đội tự vệ chiến đấu và quần chúng
cách mạng chiếm phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Cảnh sát, Sở Bưu điện, Trại Bảo an
binh…; chính quyền Bảo Đại - Trần Trọng Kim tan rã. Đêm 19/8/1945, chúng ta
hoàn toàn làm chủ Thủ đô.
Ở Huế, ngày 20/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Từ ngày
21/8/1945, hàng loạt cuộc biểu tình thị uy diễn ra, tạo thế áp đảo. Ngày
23/8/1945, hàng vạn người tiến vào thành phố, chiếm các công sở trọng yếu và
giành chính quyền trong hòa bình.
Tại Sài Gòn - Gia Định, Xứ ủy Nam Kỳ ấn định ngày khởi nghĩa là
25/8/1945. Sáng hôm đó, các đoàn công nhân, nông dân, thanh niên từ Gia Định,
Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho đổ về trung tâm thành phố. Quần chúng chiếm
3
lĩnh Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, Bưu điện, nhà ga, nhà máy điện… chính quyền bù
nhìn nhanh chóng sụp đổ, chính quyền cách mạng được thiết lập.
Thắng lợi vang dội tại ba đô thị lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã tạo hiệu ứng lan
tỏa mạnh mẽ. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đất liền
đến hải đảo - phong trào khởi nghĩa dâng lên như vũ bão. Tại Côn Đảo - nơi từng
được mệnh danh là “địa ngục trần gian”, nơi giam giữ hàng ngàn chiến sĩ cách mạng
kiên trung - khi nhận được tin phát xít Nhật đầu hàng và cuộc Tổng khởi nghĩa đang
lan rộng trong cả nước, tổ chức Đảng trong nhà tù đã nhanh chóng họp bàn, tổ chức
lực lượng, lãnh đạo tù nhân nổi dậy. Tại Phú Quốc, dưới sự lãnh đạo của tổ chức Việt
Minh, tù chính trị cùng quần chúng nhân dân trên đảo cũng vùng lên lật đổ chính
quyền thân Nhật, thiết lập chính quyền cách mạng. Ở nhiều đảo khác như Lý Sơn,
Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Hòn Gai, Vân Đồn… phong trào khởi nghĩa hưởng ứng Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám cũng diễn ra mạnh mẽ, đồng thời với các địa phương trên đất
liền, thể hiện tinh thần yêu nước sục sôi, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng độc lập
của toàn dân tộc. Các tổ chức Việt Minh, lực lượng tự vệ và quần chúng yêu nước đã
nhanh chóng phát động các cuộc mít tinh, biểu tình, tước vũ khí của lính bảo an,
chiếm các công sở và tuyên bố chính quyền về tay Nhân dân.
Tại Hà Tĩnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, cán bộ, đảng
viên và Nhân dân trong tỉnh đã vượt qua khó khăn, tham gia vào công cuộc cứu
quốc của dân tộc. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (ngày 09/3/1945), làn sóng cách
mạng dâng cao trong toàn tỉnh. Các cơ sở Việt Minh được thành lập và phát triển ở
nhiều nơi. Ngày 20/5/1945, được sự giúp đỡ của Xứ ủy Trung kỳ, Ban Vận động
thành lập Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh ra đời, các nhóm Việt Minh ở các địa
phương được tập hợp lại. Các đoàn thể cứu quốc được mở rộng.
Ngày 08/8/1945, trước sự chuyển biến nhanh chóng của tình hình trong nước,
Việt Minh liên tỉnh tổ chức Đại hội đại biểu để bàn kế hoạch chuẩn bị tổng khởi
nghĩa. Theo quyết định của Đại hội, hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh được chia thành 6
phân khu để chuẩn bị tổ chức khởi nghĩa.
Ngày 13/8/1945, Hội nghị cán bộ Việt minh các huyện thuộc phân khu Nam
Hà (Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và thị xã Hà Tĩnh) họp thảo luận kế
hoạch khởi nghĩa và thành lập ủy ban khởi nghĩa tỉnh. Ngày 15/8/1945, ủy ban khởi
nghĩa liên tỉnh Nghệ Tĩnh ban hành lệnh khởi nghĩa.
Chỉ trong vòng 5 ngày, bắt đầu từ thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Can Lộc
ngày 16/8 và kết thúc là cuộc khởi nghĩa ở Hương Khê vào ngày 21/8, Nhân dân Hà
Tĩnh đã giành được chính quyền. Hà Tĩnh là một trong 4 tỉnh của cả nước giành
được chính quyền sớm nhất trong Cách mạng Tháng Tám. Thắng lợi lịch sử này là
kết tinh của truyền thống văn hóa cách mạng của các tầng lớp Nhân dân tỉnh nhà
qua nhiều thời kỳ, mà trực tiếp là 15 năm đấu tranh đầy gian khổ hy sinh dưới sự
lãnh đạo của Đảng; đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
lĩnh Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, Bưu điện, nhà ga, nhà máy điện… chính quyền bù
nhìn nhanh chóng sụp đổ, chính quyền cách mạng được thiết lập.
Thắng lợi vang dội tại ba đô thị lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã tạo hiệu ứng lan
tỏa mạnh mẽ. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đất liền
đến hải đảo - phong trào khởi nghĩa dâng lên như vũ bão. Tại Côn Đảo - nơi từng
được mệnh danh là “địa ngục trần gian”, nơi giam giữ hàng ngàn chiến sĩ cách mạng
kiên trung - khi nhận được tin phát xít Nhật đầu hàng và cuộc Tổng khởi nghĩa đang
lan rộng trong cả nước, tổ chức Đảng trong nhà tù đã nhanh chóng họp bàn, tổ chức
lực lượng, lãnh đạo tù nhân nổi dậy. Tại Phú Quốc, dưới sự lãnh đạo của tổ chức Việt
Minh, tù chính trị cùng quần chúng nhân dân trên đảo cũng vùng lên lật đổ chính
quyền thân Nhật, thiết lập chính quyền cách mạng. Ở nhiều đảo khác như Lý Sơn,
Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Hòn Gai, Vân Đồn… phong trào khởi nghĩa hưởng ứng Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám cũng diễn ra mạnh mẽ, đồng thời với các địa phương trên đất
liền, thể hiện tinh thần yêu nước sục sôi, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng độc lập
của toàn dân tộc. Các tổ chức Việt Minh, lực lượng tự vệ và quần chúng yêu nước đã
nhanh chóng phát động các cuộc mít tinh, biểu tình, tước vũ khí của lính bảo an,
chiếm các công sở và tuyên bố chính quyền về tay Nhân dân.
Tại Hà Tĩnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, cán bộ, đảng
viên và Nhân dân trong tỉnh đã vượt qua khó khăn, tham gia vào công cuộc cứu
quốc của dân tộc. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (ngày 09/3/1945), làn sóng cách
mạng dâng cao trong toàn tỉnh. Các cơ sở Việt Minh được thành lập và phát triển ở
nhiều nơi. Ngày 20/5/1945, được sự giúp đỡ của Xứ ủy Trung kỳ, Ban Vận động
thành lập Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh ra đời, các nhóm Việt Minh ở các địa
phương được tập hợp lại. Các đoàn thể cứu quốc được mở rộng.
Ngày 08/8/1945, trước sự chuyển biến nhanh chóng của tình hình trong nước,
Việt Minh liên tỉnh tổ chức Đại hội đại biểu để bàn kế hoạch chuẩn bị tổng khởi
nghĩa. Theo quyết định của Đại hội, hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh được chia thành 6
phân khu để chuẩn bị tổ chức khởi nghĩa.
Ngày 13/8/1945, Hội nghị cán bộ Việt minh các huyện thuộc phân khu Nam
Hà (Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và thị xã Hà Tĩnh) họp thảo luận kế
hoạch khởi nghĩa và thành lập ủy ban khởi nghĩa tỉnh. Ngày 15/8/1945, ủy ban khởi
nghĩa liên tỉnh Nghệ Tĩnh ban hành lệnh khởi nghĩa.
Chỉ trong vòng 5 ngày, bắt đầu từ thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Can Lộc
ngày 16/8 và kết thúc là cuộc khởi nghĩa ở Hương Khê vào ngày 21/8, Nhân dân Hà
Tĩnh đã giành được chính quyền. Hà Tĩnh là một trong 4 tỉnh của cả nước giành
được chính quyền sớm nhất trong Cách mạng Tháng Tám. Thắng lợi lịch sử này là
kết tinh của truyền thống văn hóa cách mạng của các tầng lớp Nhân dân tỉnh nhà
qua nhiều thời kỳ, mà trực tiếp là 15 năm đấu tranh đầy gian khổ hy sinh dưới sự
lãnh đạo của Đảng; đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
4
năm 1945; mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử Hà Tĩnh với những thành tựu ngày
càng toàn diện hơn.
Chỉ trong vòng 15 ngày, từ giữa đến cuối tháng 8 năm 1945, cuộc Tổng
khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn trên phạm vi cả nước. Ngày 30/8/1945,
vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, chấm dứt hoàn toàn chế độ phong kiến kéo dài
hàng nghìn năm.
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố quyền độc lập, tự do, bình đẳng của
dân tộc Việt Nam trước thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,
và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam, quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy”. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - đánh dấu sự mở đầu kỷ nguyên
mới của dân tộc: kỷ nguyên độc lập, tự do và làm chủ vận mệnh đất nước.
3. Nguyên nhân thắng lợi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi là kết quả tổng hòa của
nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là sự kết hợp chặt chẽ giữa thời cơ lịch sử thuận lợi
với sự chuẩn bị công phu, bài bản và sự lãnh đạo sáng suốt, linh hoạt của Đảng ta do
Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Trước hết, thắng lợi đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn và kịp thời của
Đảng. Đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mà Đảng xác định phù hợp
với nguyện vọng của đại đa số Nhân dân. Đảng đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và
năng lực tổ chức thực tiễn xuất sắc khi chỉ đạo toàn dân nổi dậy đúng thời điểm,
nhanh chóng giành chính quyền trong cả nước với tinh thần: “Dù phải đốt cháy cả
dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Thứ hai, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thành quả của quá trình chuẩn bị
lâu dài, toàn diện về chính trị, tổ chức, tư tưởng và lực lượng vũ trang. Từ phong
trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, các cuộc vận động Dân chủ, Cao trào kháng Nhật cứu nước
đến việc thành lập Mặt trận Việt Minh, tổ chức các đội vũ trang, xây dựng căn cứ
địa, mở rộng lực lượng quần chúng… Đảng đã dày công chuẩn bị để sẵn sàng chớp
lấy thời cơ. Việc chủ động phát động khởi nghĩa từng phần trước khi tổng khởi
nghĩa cũng thể hiện sự nhạy bén và linh hoạt trong chỉ đạo cách mạng.
Thứ ba, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của tinh thần yêu
nước, truyền thống bất khuất và khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của toàn thể dân
tộc Việt Nam. Nhân dân ta, dưới ngọn cờ đoàn kết của Mặt trận Việt Minh, đã nhất
tề đứng dậy ở cả ba miền, từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn,
từ đất liền đến hải đảo. Đây là biểu hiện sinh động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, yếu tố nội sinh mang tính quyết định đối với thắng lợi của cách mạng.
năm 1945; mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử Hà Tĩnh với những thành tựu ngày
càng toàn diện hơn.
Chỉ trong vòng 15 ngày, từ giữa đến cuối tháng 8 năm 1945, cuộc Tổng
khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn trên phạm vi cả nước. Ngày 30/8/1945,
vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, chấm dứt hoàn toàn chế độ phong kiến kéo dài
hàng nghìn năm.
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố quyền độc lập, tự do, bình đẳng của
dân tộc Việt Nam trước thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,
và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam, quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy”. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - đánh dấu sự mở đầu kỷ nguyên
mới của dân tộc: kỷ nguyên độc lập, tự do và làm chủ vận mệnh đất nước.
3. Nguyên nhân thắng lợi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi là kết quả tổng hòa của
nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là sự kết hợp chặt chẽ giữa thời cơ lịch sử thuận lợi
với sự chuẩn bị công phu, bài bản và sự lãnh đạo sáng suốt, linh hoạt của Đảng ta do
Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Trước hết, thắng lợi đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn và kịp thời của
Đảng. Đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mà Đảng xác định phù hợp
với nguyện vọng của đại đa số Nhân dân. Đảng đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và
năng lực tổ chức thực tiễn xuất sắc khi chỉ đạo toàn dân nổi dậy đúng thời điểm,
nhanh chóng giành chính quyền trong cả nước với tinh thần: “Dù phải đốt cháy cả
dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Thứ hai, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thành quả của quá trình chuẩn bị
lâu dài, toàn diện về chính trị, tổ chức, tư tưởng và lực lượng vũ trang. Từ phong
trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, các cuộc vận động Dân chủ, Cao trào kháng Nhật cứu nước
đến việc thành lập Mặt trận Việt Minh, tổ chức các đội vũ trang, xây dựng căn cứ
địa, mở rộng lực lượng quần chúng… Đảng đã dày công chuẩn bị để sẵn sàng chớp
lấy thời cơ. Việc chủ động phát động khởi nghĩa từng phần trước khi tổng khởi
nghĩa cũng thể hiện sự nhạy bén và linh hoạt trong chỉ đạo cách mạng.
Thứ ba, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của tinh thần yêu
nước, truyền thống bất khuất và khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của toàn thể dân
tộc Việt Nam. Nhân dân ta, dưới ngọn cờ đoàn kết của Mặt trận Việt Minh, đã nhất
tề đứng dậy ở cả ba miền, từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn,
từ đất liền đến hải đảo. Đây là biểu hiện sinh động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, yếu tố nội sinh mang tính quyết định đối với thắng lợi của cách mạng.
5
Thứ tư, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong bối cảnh quốc tế hết
sức thuận lợi. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của
phát xít Đức và phát xít Nhật. Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, chính quyền tay
sai ở Đông Dương tan rã, tạo nên một khoảng trống quyền lực. Đảng ta đã đánh giá
đúng thời cơ "ngàn năm có một" và phát động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa
khi các thế lực thù địch còn chưa kịp phản ứng hoặc can thiệp.
4. Ý nghĩa lịch sử
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mở ra một bước ngoặt lớn
trong lịch sử dân tộc ta. Thắng lợi ấy đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp
hơn 80 năm, ách thống trị của phát xít Nhật gần 5 năm và lật nhào ngai vàng phong
kiến ngự trị hàng thế kỷ ở nước ta, dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa - nhà nước do Nhân dân lao động làm chủ.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng Việt Nam, mở đầu kỷ nguyên mới của dân tộc: Kỷ nguyên độc lập - tự
do; kỷ nguyên Nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận
mệnh dân tộc; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta trở thành một đảng cầm
quyền, chuẩn bị những điều kiện tiên quyết cho những thắng lợi tiếp theo.
Cách mạng Tháng Tám không chỉ có ý nghĩa đặc biệt đối với lịch sử Việt
Nam mà còn mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Thắng lợi ấy đã cổ
vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa và các lực lượng bị áp bức trên thế giới đứng lên
đấu tranh vì độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với thắng lợi đó, dân tộc Việt
Nam không chỉ giành được độc lập mà còn khẳng định vị thế và con đường phát
triển của mình trong dòng chảy của lịch sử thế giới hiện đại.
II. THÀNH TỰU NỔI BẬT SAU 80 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÀ
PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM VÀ TỈNH HÀ TĨNH
1. Thành tựu của đất nước
1.1. Giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế
Sau thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh đầy cam go, thách thức. Chính
quyền cách mạng còn non trẻ phải đối diện với muôn vàn khó khăn, hiểm nguy,
đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong giặc ngoài đan xen. Trước
tình hình đó, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, sáng suốt, kiên định của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, toàn thể dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng, phát huy cao độ
tinh thần tự lực, tự cường, bản lĩnh và trí tuệ sáng tạo, vững vàng vượt qua những
ghềnh thác cam go của lịch sử.
Thứ tư, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong bối cảnh quốc tế hết
sức thuận lợi. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của
phát xít Đức và phát xít Nhật. Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, chính quyền tay
sai ở Đông Dương tan rã, tạo nên một khoảng trống quyền lực. Đảng ta đã đánh giá
đúng thời cơ "ngàn năm có một" và phát động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa
khi các thế lực thù địch còn chưa kịp phản ứng hoặc can thiệp.
4. Ý nghĩa lịch sử
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mở ra một bước ngoặt lớn
trong lịch sử dân tộc ta. Thắng lợi ấy đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp
hơn 80 năm, ách thống trị của phát xít Nhật gần 5 năm và lật nhào ngai vàng phong
kiến ngự trị hàng thế kỷ ở nước ta, dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa - nhà nước do Nhân dân lao động làm chủ.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng Việt Nam, mở đầu kỷ nguyên mới của dân tộc: Kỷ nguyên độc lập - tự
do; kỷ nguyên Nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận
mệnh dân tộc; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta trở thành một đảng cầm
quyền, chuẩn bị những điều kiện tiên quyết cho những thắng lợi tiếp theo.
Cách mạng Tháng Tám không chỉ có ý nghĩa đặc biệt đối với lịch sử Việt
Nam mà còn mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Thắng lợi ấy đã cổ
vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa và các lực lượng bị áp bức trên thế giới đứng lên
đấu tranh vì độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với thắng lợi đó, dân tộc Việt
Nam không chỉ giành được độc lập mà còn khẳng định vị thế và con đường phát
triển của mình trong dòng chảy của lịch sử thế giới hiện đại.
II. THÀNH TỰU NỔI BẬT SAU 80 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÀ
PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM VÀ TỈNH HÀ TĨNH
1. Thành tựu của đất nước
1.1. Giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế
Sau thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh đầy cam go, thách thức. Chính
quyền cách mạng còn non trẻ phải đối diện với muôn vàn khó khăn, hiểm nguy,
đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong giặc ngoài đan xen. Trước
tình hình đó, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, sáng suốt, kiên định của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, toàn thể dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng, phát huy cao độ
tinh thần tự lực, tự cường, bản lĩnh và trí tuệ sáng tạo, vững vàng vượt qua những
ghềnh thác cam go của lịch sử.
6
Giai đoạn 1945 - 1946, Đảng và Bác Hồ đã lãnh đạo toàn dân thực hiện đồng
thời hai nhiệm vụ: xây dựng chính quyền cách mạng và bảo vệ thành quả Cách
mạng Tháng Tám. Cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 được tổ chức thành công,
Quốc hội khóa I ra đời; Hiến pháp dân chủ đầu tiên được ban hành; chính quyền
cách mạng không ngừng củng cố; các phong trào xóa nạn mù chữ, diệt “giặc đói”,
“giặc dốt”, “giặc ngoại xâm” được phát động sôi nổi; các thế lực phản cách mạng bị
trấn áp. Trước âm mưu xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp, đêm 19/12/1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra “Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến” với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”.
Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, kết hợp giữa đấu
tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh
đạo Nhân dân ta đánh bại từng bước các chiến lược của thực dân Pháp. Đỉnh cao là
chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 - một bản anh hùng ca vĩ đại, “lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, công
nhận các quyền dân tộc cơ bản của Nhân dân ta, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
9 năm trường kỳ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Tuy nhiên, sau đó đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào miền Nam, thực hiện
âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới.
Trước tình thế đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta kiên quyết thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc - xây dựng hậu phương lớn cho cả nước, và
cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam - đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là bản anh hùng ca của
dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Trải qua 21 năm trường kỳ, gian khổ và oanh
liệt (1954 - 1975), Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân hai miền đất nước giành thắng
lợi từng bước trước các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ. Miền Bắc vừa
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa nỗ lực phục hồi và phát triển kinh tế,
thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn, không ngừng chi viện cho tiền tuyến miền
Nam. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau ngày thống nhất, đất nước ta tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn to lớn.
Một mặt, chúng ta phải khẩn trương khắc phục hậu quả nặng nề của hơn ba thập
kỷ chiến tranh, ổn định đời sống Nhân dân, củng cố chính quyền cách mạng và xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Mặt khác vừa chiến đấu bảo vệ biên giới, bảo vệ
độc lập, chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời làm tròn nghĩa vụ
quốc tế cao cả giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và tiến hành
công cuộc hồi sinh đất nước.
Giai đoạn 1945 - 1946, Đảng và Bác Hồ đã lãnh đạo toàn dân thực hiện đồng
thời hai nhiệm vụ: xây dựng chính quyền cách mạng và bảo vệ thành quả Cách
mạng Tháng Tám. Cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 được tổ chức thành công,
Quốc hội khóa I ra đời; Hiến pháp dân chủ đầu tiên được ban hành; chính quyền
cách mạng không ngừng củng cố; các phong trào xóa nạn mù chữ, diệt “giặc đói”,
“giặc dốt”, “giặc ngoại xâm” được phát động sôi nổi; các thế lực phản cách mạng bị
trấn áp. Trước âm mưu xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp, đêm 19/12/1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra “Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến” với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”.
Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, kết hợp giữa đấu
tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh
đạo Nhân dân ta đánh bại từng bước các chiến lược của thực dân Pháp. Đỉnh cao là
chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 - một bản anh hùng ca vĩ đại, “lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, công
nhận các quyền dân tộc cơ bản của Nhân dân ta, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
9 năm trường kỳ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Tuy nhiên, sau đó đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào miền Nam, thực hiện
âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới.
Trước tình thế đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta kiên quyết thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc - xây dựng hậu phương lớn cho cả nước, và
cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam - đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là bản anh hùng ca của
dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Trải qua 21 năm trường kỳ, gian khổ và oanh
liệt (1954 - 1975), Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân hai miền đất nước giành thắng
lợi từng bước trước các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ. Miền Bắc vừa
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa nỗ lực phục hồi và phát triển kinh tế,
thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn, không ngừng chi viện cho tiền tuyến miền
Nam. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau ngày thống nhất, đất nước ta tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn to lớn.
Một mặt, chúng ta phải khẩn trương khắc phục hậu quả nặng nề của hơn ba thập
kỷ chiến tranh, ổn định đời sống Nhân dân, củng cố chính quyền cách mạng và xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Mặt khác vừa chiến đấu bảo vệ biên giới, bảo vệ
độc lập, chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời làm tròn nghĩa vụ
quốc tế cao cả giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và tiến hành
công cuộc hồi sinh đất nước.
7
Trong khi kiên cường đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, nước ta còn phải đối mặt với
tình trạng bị bao vây, cấm vận kéo dài từ bên ngoài; đồng thời, cơ chế quản lý tập
trung, quan liêu, bao cấp không còn phù hợp, làm phát sinh nhiều hạn chế, bất cập
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều kiện đầy khó khăn ấy, Đảng
vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, từng bước vượt qua trở
lực, nhanh chóng khôi phục kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và chủ
quyền quốc gia, tạo nền tảng để chuyển hướng chiến lược trong tư duy phát triển.
Mười năm sau thống nhất (1975 - 1985) là giai đoạn đầy thử thách. Đó là
thời kỳ Đảng ta từng bước tìm tòi con đường đổi mới, tư duy phát triển dần được
hình thành từ thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu cũng
như những khó khăn, hạn chế trong thời kỳ này đã để lại những bài học quý báu,
đặt nền móng tư tưởng và thực tiễn cho công cuộc Đổi mới toàn diện do Đảng
khởi xướng từ năm 1986.
1.2. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đưa đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội
- Một quốc gia có chế độ chính trị độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và tự quyết
định con đường phát triển của mình
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi đã mở ra bước ngoặt vĩ đại
trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự kiện ngày 02/9/1945 với sự ra đời của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã
chấm dứt vĩnh viễn chế độ phong kiến, kết thúc hơn 80 năm bị đô hộ. Từ đây, dân
tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tiếp nối thắng lợi ấy, ngày 06/01/1946, cuộc Tổng Tuyển cử toàn quốc lần
đầu tiên được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, với 333 đại biểu Quốc
hội được Nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra. Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến
pháp năm 1946, xác lập nền tảng pháp lý nhà nước kiểu mới, khẳng định chính
quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân - có đầy đủ tư cách đại diện
cho đất nước trên trường quốc tế.
Sau ba thập kỷ tiếp tục trường kỳ kháng chiến, đỉnh cao là Đại thắng mùa
Xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối. Hội
nghị Trung ương 24 (tháng 9/1975) xác định nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất
nước về mặt nhà nước. Kết quả, ngày 25/4/1976, hơn 23 triệu cử tri (98,8 % tổng
số) tham gia Tổng Tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước. Tại kỳ họp đầu tiên,
Quốc hội quyết nghị đặt tên nước là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Quốc
kỳ là cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là “Tiến quân ca”, Quốc huy mang dòng chữ “Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, quyết định Hà Nội là Thủ đô và đổi tên Thành
phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong khi kiên cường đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, nước ta còn phải đối mặt với
tình trạng bị bao vây, cấm vận kéo dài từ bên ngoài; đồng thời, cơ chế quản lý tập
trung, quan liêu, bao cấp không còn phù hợp, làm phát sinh nhiều hạn chế, bất cập
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều kiện đầy khó khăn ấy, Đảng
vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, từng bước vượt qua trở
lực, nhanh chóng khôi phục kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và chủ
quyền quốc gia, tạo nền tảng để chuyển hướng chiến lược trong tư duy phát triển.
Mười năm sau thống nhất (1975 - 1985) là giai đoạn đầy thử thách. Đó là
thời kỳ Đảng ta từng bước tìm tòi con đường đổi mới, tư duy phát triển dần được
hình thành từ thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu cũng
như những khó khăn, hạn chế trong thời kỳ này đã để lại những bài học quý báu,
đặt nền móng tư tưởng và thực tiễn cho công cuộc Đổi mới toàn diện do Đảng
khởi xướng từ năm 1986.
1.2. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đưa đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội
- Một quốc gia có chế độ chính trị độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và tự quyết
định con đường phát triển của mình
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi đã mở ra bước ngoặt vĩ đại
trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự kiện ngày 02/9/1945 với sự ra đời của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã
chấm dứt vĩnh viễn chế độ phong kiến, kết thúc hơn 80 năm bị đô hộ. Từ đây, dân
tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tiếp nối thắng lợi ấy, ngày 06/01/1946, cuộc Tổng Tuyển cử toàn quốc lần
đầu tiên được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, với 333 đại biểu Quốc
hội được Nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra. Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến
pháp năm 1946, xác lập nền tảng pháp lý nhà nước kiểu mới, khẳng định chính
quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân - có đầy đủ tư cách đại diện
cho đất nước trên trường quốc tế.
Sau ba thập kỷ tiếp tục trường kỳ kháng chiến, đỉnh cao là Đại thắng mùa
Xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối. Hội
nghị Trung ương 24 (tháng 9/1975) xác định nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất
nước về mặt nhà nước. Kết quả, ngày 25/4/1976, hơn 23 triệu cử tri (98,8 % tổng
số) tham gia Tổng Tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước. Tại kỳ họp đầu tiên,
Quốc hội quyết nghị đặt tên nước là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Quốc
kỳ là cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là “Tiến quân ca”, Quốc huy mang dòng chữ “Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, quyết định Hà Nội là Thủ đô và đổi tên Thành
phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh.
8
Việc hoàn tất thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo điều kiện chính trị
căn bản để huy động, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, mở đường cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới; khẳng định quyền tự quyết của Nhân
dân Việt Nam trên con đường kiên định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, hùng cường.
- Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày
càng sáng tỏ
Ngay từ khi ra đời tháng 02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định
con đường xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được Hội nghị thành lập
Đảng thông qua, nêu mục tiêu chiến lược “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập” để “tiến tới xã hội cộng sản”. Tiếp đó, Luận cương chính trị tháng 10/1930
chỉ rõ: cách mạng Việt Nam “bỏ qua giai đoạn tư bản, trực tiếp tiến lên con đường
xã hội chủ nghĩa”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã xóa bỏ ách thực dân, phong kiến, mở
ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - kỷ nguyên mà Nhân
dân làm chủ xã hội và chính cuộc sống của mình.
Tại Đại hội II (tháng 02/1951), Luận cương cách mạng Việt Nam lần đầu tiên
trình bày những điều kiện và phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua
hai thập kỷ chiến tranh giải phóng và kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, nhận thức đó tiếp
tục được củng cố và phát triển. Bước ngoặt đổi mới toàn diện do Đại hội VI (tháng
12/1986) khởi xướng đã được lý luận hóa bằng việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng tổng kết thực tiễn cách mạng trong
nước, đã tạo nền tảng cho tư duy mới về thời kỳ quá độ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do
Đại hội VII (tháng 6/1991) thông qua và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) được Đại hội XI phê chuẩn, là những mốc quan trọng đánh dấu quá trình
hoàn thiện về lý luận. Tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được xác định
trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) giúp Đảng nhận thức sâu sắc hơn
về dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân; về mục tiêu phát triển
nhanh, bền vững, coi chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế là
trung tâm; về con người và văn hóa là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh của
phát triển; về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với mở rộng quan hệ quốc
tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Từ Đại hội VII đến Đại hội XIII, đường lối đổi mới được bổ sung, hoàn thiện,
tiếp tục khẳng định: kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu đổi
mới đồng bộ, toàn diện trên mọi lĩnh vực, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thành quả đổi mới gần bốn thập kỷ qua chứng minh tính đúng đắn và sáng
tạo của con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng
Việc hoàn tất thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo điều kiện chính trị
căn bản để huy động, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, mở đường cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới; khẳng định quyền tự quyết của Nhân
dân Việt Nam trên con đường kiên định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, hùng cường.
- Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày
càng sáng tỏ
Ngay từ khi ra đời tháng 02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định
con đường xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được Hội nghị thành lập
Đảng thông qua, nêu mục tiêu chiến lược “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập” để “tiến tới xã hội cộng sản”. Tiếp đó, Luận cương chính trị tháng 10/1930
chỉ rõ: cách mạng Việt Nam “bỏ qua giai đoạn tư bản, trực tiếp tiến lên con đường
xã hội chủ nghĩa”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã xóa bỏ ách thực dân, phong kiến, mở
ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - kỷ nguyên mà Nhân
dân làm chủ xã hội và chính cuộc sống của mình.
Tại Đại hội II (tháng 02/1951), Luận cương cách mạng Việt Nam lần đầu tiên
trình bày những điều kiện và phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua
hai thập kỷ chiến tranh giải phóng và kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, nhận thức đó tiếp
tục được củng cố và phát triển. Bước ngoặt đổi mới toàn diện do Đại hội VI (tháng
12/1986) khởi xướng đã được lý luận hóa bằng việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng tổng kết thực tiễn cách mạng trong
nước, đã tạo nền tảng cho tư duy mới về thời kỳ quá độ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do
Đại hội VII (tháng 6/1991) thông qua và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) được Đại hội XI phê chuẩn, là những mốc quan trọng đánh dấu quá trình
hoàn thiện về lý luận. Tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được xác định
trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) giúp Đảng nhận thức sâu sắc hơn
về dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân; về mục tiêu phát triển
nhanh, bền vững, coi chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế là
trung tâm; về con người và văn hóa là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh của
phát triển; về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với mở rộng quan hệ quốc
tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Từ Đại hội VII đến Đại hội XIII, đường lối đổi mới được bổ sung, hoàn thiện,
tiếp tục khẳng định: kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu đổi
mới đồng bộ, toàn diện trên mọi lĩnh vực, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thành quả đổi mới gần bốn thập kỷ qua chứng minh tính đúng đắn và sáng
tạo của con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng
9
khá cao, đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế và uy tín quốc tế của đất
nước không ngừng nâng cao. Những kết quả ấy khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, đồng
thời minh chứng cho sự phát triển ngày càng sáng tỏ của nhận thức lý luận về chủ
nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, kém phát triển, trở
thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình
Giai đoạn 1945-1954 là thời kỳ đầu tiên xây dựng nền kinh tế mới ở Việt
Nam, đồng thời cũng là giai đoạn gian khổ nhất trong lịch sử phát triển đất nước.
Trong bối cảnh vừa giành được chính quyền, lại phải bước vào cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp, nhiệm vụ xây dựng và cải tạo nền kinh tế được
triển khai trong điều kiện hết sức khó khăn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã
từng bước chuyển đổi nền kinh tế tàn dư của chế độ thực dân, phong kiến vốn lạc
hậu, lệ thuộc, thành một nền kinh tế dân chủ, độc lập, phục vụ trực tiếp cho sự
nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Từ năm 1955 đến năm 1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai mô
hình kinh tế - xã hội khác nhau. Ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế phù hợp với từng thời kỳ: từ khôi phục và hàn gắn vết
thương chiến tranh (1955 - 1957), đến hoàn thành cải cách ruộng đất, cải tạo quan
hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960), rồi chuyển sang phát
triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng hậu phương lớn cho tiền tuyến
miền Nam trong điều kiện chiến tranh khốc liệt (1961 - 1975).
Giai đoạn 1976 - 1985, sau khi đất nước thống nhất, cả nước cùng tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ mà công cuộc cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế
được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nhân
dân cả nước tích cực triển khai kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) và kế hoạch
5 năm lần thứ ba (1981 - 1985). Tuy đã đạt được một số kết quả bước đầu trong khôi
phục sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhưng nhìn chung nền kinh tế
vẫn còn nhiều yếu kém. Những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung, bao cấp kéo dài,
cùng những khó khăn từ bên ngoài đã khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, mất
cân đối, thậm chí có những biểu hiện của khủng hoảng nghiêm trọng.
Trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, từ năm 1986, Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế.
Với việc từng bước xóa bỏ cơ chế bao cấp, phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận
hành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Đến năm 1995, các chỉ
tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) đều hoàn thành và vượt mức, đưa
đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo đà chuyển sang giai đoạn phát
triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
khá cao, đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế và uy tín quốc tế của đất
nước không ngừng nâng cao. Những kết quả ấy khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, đồng
thời minh chứng cho sự phát triển ngày càng sáng tỏ của nhận thức lý luận về chủ
nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, kém phát triển, trở
thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình
Giai đoạn 1945-1954 là thời kỳ đầu tiên xây dựng nền kinh tế mới ở Việt
Nam, đồng thời cũng là giai đoạn gian khổ nhất trong lịch sử phát triển đất nước.
Trong bối cảnh vừa giành được chính quyền, lại phải bước vào cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp, nhiệm vụ xây dựng và cải tạo nền kinh tế được
triển khai trong điều kiện hết sức khó khăn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã
từng bước chuyển đổi nền kinh tế tàn dư của chế độ thực dân, phong kiến vốn lạc
hậu, lệ thuộc, thành một nền kinh tế dân chủ, độc lập, phục vụ trực tiếp cho sự
nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Từ năm 1955 đến năm 1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai mô
hình kinh tế - xã hội khác nhau. Ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế phù hợp với từng thời kỳ: từ khôi phục và hàn gắn vết
thương chiến tranh (1955 - 1957), đến hoàn thành cải cách ruộng đất, cải tạo quan
hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960), rồi chuyển sang phát
triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng hậu phương lớn cho tiền tuyến
miền Nam trong điều kiện chiến tranh khốc liệt (1961 - 1975).
Giai đoạn 1976 - 1985, sau khi đất nước thống nhất, cả nước cùng tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ mà công cuộc cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế
được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nhân
dân cả nước tích cực triển khai kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) và kế hoạch
5 năm lần thứ ba (1981 - 1985). Tuy đã đạt được một số kết quả bước đầu trong khôi
phục sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhưng nhìn chung nền kinh tế
vẫn còn nhiều yếu kém. Những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung, bao cấp kéo dài,
cùng những khó khăn từ bên ngoài đã khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, mất
cân đối, thậm chí có những biểu hiện của khủng hoảng nghiêm trọng.
Trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, từ năm 1986, Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế.
Với việc từng bước xóa bỏ cơ chế bao cấp, phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận
hành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Đến năm 1995, các chỉ
tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) đều hoàn thành và vượt mức, đưa
đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo đà chuyển sang giai đoạn phát
triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
10
Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh và
bao vây cấm vận, Việt Nam từng bước vươn lên trở thành một quốc gia đang phát
triển có thu nhập trung bình. Tính đến năm 2024, quy mô nền kinh tế Việt Nam xếp
thứ 32 thế giới, thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu
tư nước ngoài. Thành quả ấy là minh chứng sinh động cho tầm vóc, trí tuệ và bản
lĩnh của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong hành trình vượt qua khó khăn, khơi
dậy nội lực, tranh thủ thời cơ, hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững.
- Văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, dân tộc, khoa học, đại chúng trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành nguồn lực phát triển đất nước
Nhận thức của Đảng và Nhà nước, của Nhân dân về vai trò của văn hóa trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đầy đủ và nâng cao. Sự nghiệp xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả
quan trọng. Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của
các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của Nhân dân ngày
càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy,
nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn
học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin
đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt
được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình,
dòng họ, cộng đồng... Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp
phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc
thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và
sinh hoạt văn hóa tâm linh của Nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý nhà nước
về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Đội ngũ
làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do sáng tạo của văn
nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc.
- Hệ thống chính sách xã hội được xây dựng và ngày càng hoàn thiện
Từ năm 1986 đến nay, cùng với quá trình thực hiện công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, lĩnh vực xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần bảo
đảm ổn định chính trị - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân.
Nhận thức và quan điểm của Đảng ta về chính sách xã hội ngày càng được hoàn
thiện và phát triển thành một hệ thống nhất quán, với nội dung cốt lõi là: tăng
trưởng kinh tế luôn phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển vì con
người, đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển.
Chính sách xã hội đúng đắn, nhân văn, vì hạnh phúc của Nhân dân được xác
định không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực to lớn, khơi dậy và phát huy mọi
tiềm năng sáng tạo trong toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta khẳng định rõ trách nhiệm của toàn xã hội, của cả
Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh và
bao vây cấm vận, Việt Nam từng bước vươn lên trở thành một quốc gia đang phát
triển có thu nhập trung bình. Tính đến năm 2024, quy mô nền kinh tế Việt Nam xếp
thứ 32 thế giới, thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu
tư nước ngoài. Thành quả ấy là minh chứng sinh động cho tầm vóc, trí tuệ và bản
lĩnh của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong hành trình vượt qua khó khăn, khơi
dậy nội lực, tranh thủ thời cơ, hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững.
- Văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, dân tộc, khoa học, đại chúng trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành nguồn lực phát triển đất nước
Nhận thức của Đảng và Nhà nước, của Nhân dân về vai trò của văn hóa trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đầy đủ và nâng cao. Sự nghiệp xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả
quan trọng. Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của
các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của Nhân dân ngày
càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy,
nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn
học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin
đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt
được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình,
dòng họ, cộng đồng... Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp
phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc
thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và
sinh hoạt văn hóa tâm linh của Nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý nhà nước
về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Đội ngũ
làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do sáng tạo của văn
nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc.
- Hệ thống chính sách xã hội được xây dựng và ngày càng hoàn thiện
Từ năm 1986 đến nay, cùng với quá trình thực hiện công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, lĩnh vực xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần bảo
đảm ổn định chính trị - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân.
Nhận thức và quan điểm của Đảng ta về chính sách xã hội ngày càng được hoàn
thiện và phát triển thành một hệ thống nhất quán, với nội dung cốt lõi là: tăng
trưởng kinh tế luôn phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển vì con
người, đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển.
Chính sách xã hội đúng đắn, nhân văn, vì hạnh phúc của Nhân dân được xác
định không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực to lớn, khơi dậy và phát huy mọi
tiềm năng sáng tạo trong toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta khẳng định rõ trách nhiệm của toàn xã hội, của cả
11
hệ thống chính trị và mọi người dân trong việc thực hiện và giải quyết các vấn đề xã
hội theo hướng xã hội hóa mạnh mẽ, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, bảo
đảm công bằng, hiệu quả và bền vững.
Những định hướng này hướng tới mục tiêu xây dựng một hệ thống an sinh xã
hội toàn diện, bao trùm, bền vững - nơi mọi người dân đều được bảo đảm an toàn về
thu nhập, việc làm, sức khỏe, giáo dục, nhà ở và các dịch vụ cơ bản, qua đó khẳng
định bản chất ưu việt của chế độ ta và củng cố niềm tin xã hội đối với sự lãnh đạo
của Đảng và quản lý của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước.
- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội, trật tự an toàn xã
hội và môi trường hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển đất nước
Bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, là tiền đề căn bản để giữ gìn
thành quả cách mạng, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc phát triển
đất nước nhanh và bền vững. Đây cũng chính là một trong những thành tựu lớn nhất,
toàn diện và bền vững nhất trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh trong suốt 80 năm qua.
Dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống
nhất của Nhà nước và sự đồng lòng của toàn dân tộc, chúng ta đã kiên quyết, kiên trì
giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc
biên giới quốc gia, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Đồng thời, luôn giữ thế chủ
động chiến lược, xử lý linh hoạt, sáng tạo các tình huống phức tạp, nhạy cảm về
quốc phòng - an ninh; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực
thù địch, phản động, nhất là trên không gian mạng, trong các lĩnh vực tư tưởng, văn
hóa, dân tộc, tôn giáo và quyền con người.
An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; môi trường hòa bình,
ổn định lâu dài cho phát triển đất nước được bảo đảm. Thế trận quốc phòng toàn dân
gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, được xây dựng đồng bộ,
hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở. Năng lực phòng thủ của đất nước, nhất là tại các
khu vực trọng yếu chiến lược, ngày càng được tăng cường. Lực lượng vũ trang nhân
dân không ngừng được củng cố, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, luôn
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Việt Nam kiên định đường lối quốc phòng toàn dân, nền quốc phòng mang
tính hòa bình, tự vệ, không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài
đặt căn cứ quân sự, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế. Đường lối ấy đã nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam, góp
phần củng cố niềm tin chiến lược, tạo dựng hình ảnh một đất nước yêu chuộng
hòa bình, có trách nhiệm và chủ động hội nhập, hợp tác quốc phòng - an ninh,
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc bằng sức mạnh tổng hợp. Đặc biệt, trước những
hệ thống chính trị và mọi người dân trong việc thực hiện và giải quyết các vấn đề xã
hội theo hướng xã hội hóa mạnh mẽ, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, bảo
đảm công bằng, hiệu quả và bền vững.
Những định hướng này hướng tới mục tiêu xây dựng một hệ thống an sinh xã
hội toàn diện, bao trùm, bền vững - nơi mọi người dân đều được bảo đảm an toàn về
thu nhập, việc làm, sức khỏe, giáo dục, nhà ở và các dịch vụ cơ bản, qua đó khẳng
định bản chất ưu việt của chế độ ta và củng cố niềm tin xã hội đối với sự lãnh đạo
của Đảng và quản lý của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước.
- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội, trật tự an toàn xã
hội và môi trường hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển đất nước
Bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, là tiền đề căn bản để giữ gìn
thành quả cách mạng, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc phát triển
đất nước nhanh và bền vững. Đây cũng chính là một trong những thành tựu lớn nhất,
toàn diện và bền vững nhất trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh trong suốt 80 năm qua.
Dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống
nhất của Nhà nước và sự đồng lòng của toàn dân tộc, chúng ta đã kiên quyết, kiên trì
giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc
biên giới quốc gia, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Đồng thời, luôn giữ thế chủ
động chiến lược, xử lý linh hoạt, sáng tạo các tình huống phức tạp, nhạy cảm về
quốc phòng - an ninh; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực
thù địch, phản động, nhất là trên không gian mạng, trong các lĩnh vực tư tưởng, văn
hóa, dân tộc, tôn giáo và quyền con người.
An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; môi trường hòa bình,
ổn định lâu dài cho phát triển đất nước được bảo đảm. Thế trận quốc phòng toàn dân
gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, được xây dựng đồng bộ,
hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở. Năng lực phòng thủ của đất nước, nhất là tại các
khu vực trọng yếu chiến lược, ngày càng được tăng cường. Lực lượng vũ trang nhân
dân không ngừng được củng cố, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, luôn
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Việt Nam kiên định đường lối quốc phòng toàn dân, nền quốc phòng mang
tính hòa bình, tự vệ, không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài
đặt căn cứ quân sự, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế. Đường lối ấy đã nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam, góp
phần củng cố niềm tin chiến lược, tạo dựng hình ảnh một đất nước yêu chuộng
hòa bình, có trách nhiệm và chủ động hội nhập, hợp tác quốc phòng - an ninh,
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc bằng sức mạnh tổng hợp. Đặc biệt, trước những
12
thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng (dịch bệnh, thiên tai, biến
đổi khí hậu, khủng bố, an ninh mạng...), chúng ta đã nâng cao năng lực ứng phó,
điều phối hiệu quả các nguồn lực, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị và toàn dân để giữ vững ổn định, củng cố niềm tin và tạo nền tảng vững
chắc cho quá trình đổi mới, phát triển đất nước.
Thành tựu nổi bật trong bảo vệ Tổ quốc suốt 80 năm qua không chỉ là giữ gìn
chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng, mà còn là giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ, đồng thời tạo thế và lực mới để Việt
Nam hội nhập sâu rộng, nâng cao vị thế, uy tín trên trường quốc tế, khẳng định bản
lĩnh và trí tuệ của một dân tộc kiên cường, độc lập và sáng tạo trong thời đại mới.
- Công tác đối ngoại đã góp phần duy trì, củng cố môi trường hòa bình ổn định,
giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời hình thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
mềm dẻo, tranh thủ tối đa sự đồng tình của bạn bè quốc tế để bảo vệ chính quyền
cách mạng non trẻ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
ngoại giao Việt Nam kiên trì “lấy chính nghĩa thắng cường quyền”, khôn khéo
kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, tạo lập mặt trận dư
luận rộng rãi ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của Nhân dân ta.
Từ đầu thập niên 1950, hoạt động đối ngoại được triển khai có hệ thống trên
ba kênh bổ trợ lẫn nhau: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân
dân. Cơ chế phối hợp liên hoàn ấy đã làm phong phú phương thức vận động quốc
tế, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước và sau đó là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bước sang thời
kỳ đổi mới, trong bối cảnh trật tự thế giới biến chuyển sâu sắc, Đại hội VII (1991)
xác lập phương châm “đa phương hóa, đa dạng hóa” với tinh thần: Việt Nam muốn
là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển. Đại hội IX và các Đại hội sau tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, lấy lợi ích quốc gia - dân tộc và
hòa bình, hợp tác, phát triển làm điểm tương đồng.
Nhờ kiên định đường lối ấy, Việt Nam đã bình thường hóa và thúc đẩy quan
hệ với các đối tác then chốt, gia nhập ASEAN, WTO, CPTPP và ký EVFTA,
RCEP…; thiết lập mạng lưới đối tác toàn cầu; thiết lập và duy trì quan hệ ngoại
giao với 194/194 nước thành viên Liên hợp quốc; thiết lập và nâng cấp nhiều mối
quan hệ lên đối tác chiến lược và đối tác toàn diện; thiết lập quan hệ hữu nghị, hợp
tác sâu rộng với 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc,
toàn bộ G7 và 17/20 nước G20; khẳng định vai trò, uy tín trên các diễn đàn đa
phương; tích cực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình; triển khai hiệu quả ngoại
thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng (dịch bệnh, thiên tai, biến
đổi khí hậu, khủng bố, an ninh mạng...), chúng ta đã nâng cao năng lực ứng phó,
điều phối hiệu quả các nguồn lực, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị và toàn dân để giữ vững ổn định, củng cố niềm tin và tạo nền tảng vững
chắc cho quá trình đổi mới, phát triển đất nước.
Thành tựu nổi bật trong bảo vệ Tổ quốc suốt 80 năm qua không chỉ là giữ gìn
chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng, mà còn là giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ, đồng thời tạo thế và lực mới để Việt
Nam hội nhập sâu rộng, nâng cao vị thế, uy tín trên trường quốc tế, khẳng định bản
lĩnh và trí tuệ của một dân tộc kiên cường, độc lập và sáng tạo trong thời đại mới.
- Công tác đối ngoại đã góp phần duy trì, củng cố môi trường hòa bình ổn định,
giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời hình thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
mềm dẻo, tranh thủ tối đa sự đồng tình của bạn bè quốc tế để bảo vệ chính quyền
cách mạng non trẻ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
ngoại giao Việt Nam kiên trì “lấy chính nghĩa thắng cường quyền”, khôn khéo
kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, tạo lập mặt trận dư
luận rộng rãi ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của Nhân dân ta.
Từ đầu thập niên 1950, hoạt động đối ngoại được triển khai có hệ thống trên
ba kênh bổ trợ lẫn nhau: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân
dân. Cơ chế phối hợp liên hoàn ấy đã làm phong phú phương thức vận động quốc
tế, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước và sau đó là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bước sang thời
kỳ đổi mới, trong bối cảnh trật tự thế giới biến chuyển sâu sắc, Đại hội VII (1991)
xác lập phương châm “đa phương hóa, đa dạng hóa” với tinh thần: Việt Nam muốn
là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển. Đại hội IX và các Đại hội sau tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, lấy lợi ích quốc gia - dân tộc và
hòa bình, hợp tác, phát triển làm điểm tương đồng.
Nhờ kiên định đường lối ấy, Việt Nam đã bình thường hóa và thúc đẩy quan
hệ với các đối tác then chốt, gia nhập ASEAN, WTO, CPTPP và ký EVFTA,
RCEP…; thiết lập mạng lưới đối tác toàn cầu; thiết lập và duy trì quan hệ ngoại
giao với 194/194 nước thành viên Liên hợp quốc; thiết lập và nâng cấp nhiều mối
quan hệ lên đối tác chiến lược và đối tác toàn diện; thiết lập quan hệ hữu nghị, hợp
tác sâu rộng với 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc,
toàn bộ G7 và 17/20 nước G20; khẳng định vai trò, uy tín trên các diễn đàn đa
phương; tích cực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình; triển khai hiệu quả ngoại
13
giao kinh tế, ngoại giao văn hóa… góp phần quan trọng duy trì môi trường hòa
bình, bảo vệ chủ quyền, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
1.3. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngày 02/9/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đặt nền móng đầu tiên
cho chế độ nhà nước kiểu mới ở nước ta - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bản Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta -
thể hiện rõ yêu cầu về một nhà nước dân chủ, pháp quyền. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước pháp quyền đã được khẳng định ngay từ thời điểm đó: chủ
quyền lập hiến thuộc về Nhân dân; bộ máy nhà nước phải là công cụ thực hiện ý
chí, nguyện vọng của Nhân dân; cán bộ, công chức không được là “ông quan
cách mạng” mà phải là “công bộc của dân”, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm
mục tiêu phục vụ. Pháp luật không phải công cụ trừng trị mà là phương tiện bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân.
Tư tưởng cốt lõi đó đã được Đảng kế thừa và từng bước hoàn thiện trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng. Đại hội VII của Đảng (năm 1991) và Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã lần đầu tiên xác định
những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: quyền lực nhà
nước là thống nhất, nhưng có sự phân công rõ ràng giữa lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) chính thức
đưa nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vào văn kiện Đảng.
Các Đại hội IX (2001), X (2006) tiếp tục khẳng định và bổ sung nội dung này.
Đến Đại hội XI (năm 2011), Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã
xác định: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Những định hướng này được cụ thể
hóa trong Hiến pháp năm 2013 và nhiều đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy
nhà nước. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) tiếp tục khẳng định rõ: xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của
công cuộc đổi mới hệ thống chính trị.
Qua các kỳ Đại hội, cùng với thực tiễn lãnh đạo, nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ngày càng được bổ sung, phát triển toàn diện và sâu sắc hơn. Theo đó, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ tiếp thu các giá trị tiến bộ
chung của nhân loại, mà còn mang những đặc trưng phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện đầy đủ những nguyên lý căn bản
giao kinh tế, ngoại giao văn hóa… góp phần quan trọng duy trì môi trường hòa
bình, bảo vệ chủ quyền, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
1.3. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngày 02/9/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đặt nền móng đầu tiên
cho chế độ nhà nước kiểu mới ở nước ta - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bản Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta -
thể hiện rõ yêu cầu về một nhà nước dân chủ, pháp quyền. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước pháp quyền đã được khẳng định ngay từ thời điểm đó: chủ
quyền lập hiến thuộc về Nhân dân; bộ máy nhà nước phải là công cụ thực hiện ý
chí, nguyện vọng của Nhân dân; cán bộ, công chức không được là “ông quan
cách mạng” mà phải là “công bộc của dân”, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm
mục tiêu phục vụ. Pháp luật không phải công cụ trừng trị mà là phương tiện bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân.
Tư tưởng cốt lõi đó đã được Đảng kế thừa và từng bước hoàn thiện trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng. Đại hội VII của Đảng (năm 1991) và Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã lần đầu tiên xác định
những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: quyền lực nhà
nước là thống nhất, nhưng có sự phân công rõ ràng giữa lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) chính thức
đưa nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vào văn kiện Đảng.
Các Đại hội IX (2001), X (2006) tiếp tục khẳng định và bổ sung nội dung này.
Đến Đại hội XI (năm 2011), Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã
xác định: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Những định hướng này được cụ thể
hóa trong Hiến pháp năm 2013 và nhiều đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy
nhà nước. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) tiếp tục khẳng định rõ: xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của
công cuộc đổi mới hệ thống chính trị.
Qua các kỳ Đại hội, cùng với thực tiễn lãnh đạo, nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ngày càng được bổ sung, phát triển toàn diện và sâu sắc hơn. Theo đó, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ tiếp thu các giá trị tiến bộ
chung của nhân loại, mà còn mang những đặc trưng phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện đầy đủ những nguyên lý căn bản
14
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ bản chất, nguyên tắc tổ
chức, cơ cấu vận hành, phân công quyền lực nhà nước đến vai trò của pháp luật
trong xã hội và sự lãnh đạo của Đảng.
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng. Nhận thức lý
luận về mô hình nhà nước này ngày càng đầy đủ, thống nhất hơn. Hệ thống pháp
luật được xây dựng ngày càng đồng bộ, thống nhất, bảo đảm tính khả thi trong
thực tiễn. Vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được coi trọng trong hoạt
động của cả hệ thống chính trị và đời sống xã hội.
Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ ràng và hiệu quả
hơn. Bộ máy nhà nước được tổ chức tinh gọn, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu
quả. Quốc hội tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao chất lượng lập
pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Chính phủ tích
cực, chủ động trong điều hành, tập trung quản lý vĩ mô, cải cách hành chính, tháo
gỡ điểm nghẽn, phục vụ phát triển đất nước. Cải cách tư pháp được đẩy mạnh;
các cơ quan tư pháp từng bước được hoàn thiện về tổ chức, nâng cao chất lượng
hoạt động, bảo đảm nguyên tắc pháp quyền trong xét xử và thực thi công lý. Các
quyền con người, quyền công dân được hiến định và ngày càng được cụ thể hóa
bằng pháp luật và triển khai hiệu quả trên thực tế. Dân chủ đại diện và dân chủ
trực tiếp tiếp tục được phát huy. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội từng bước đổi mới phương thức hoạt động, đóng góp thiết thực vào
việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân.
Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nguyên tắc
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đang ngày càng hoàn thiện,
trở thành nền tảng vững chắc góp phần vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Thành tựu của tỉnh Hà Tĩnh
2.1. Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Hà Tĩnh phát huy tinh thần, hào
khí Cách mạng Tháng Tám năm 1945 xây dựng quê hương ngày càng phát triển,
vững mạnh
Sau Cách mạng tháng Tám, trước những khó khăn chồng chất, quân và dân
Hà Tĩnh dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nhanh chóng triển khai và hoàn thành xuất
sắc nhiều nhiệm vụ cách mạng mới. Vừa củng cố xây dựng Đảng bộ chính quyền
cách mạng và các đoàn thể quần chúng, vừa tập trung khắc phục nạn đói, đẩy mạnh
tăng gia sản xuất, phát triển phong trào bình dân học vụ và văn hoá giáo dục, xây
dựng lực lượng vũ trang, đấu tranh với mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù. Chỉ trong
vòng 16 tháng, Hà Tĩnh đã đạt được nhiều kết quả to lớn, chuẩn bị bước vào cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hà Tĩnh đã sớm tổ chức được lực
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ bản chất, nguyên tắc tổ
chức, cơ cấu vận hành, phân công quyền lực nhà nước đến vai trò của pháp luật
trong xã hội và sự lãnh đạo của Đảng.
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng. Nhận thức lý
luận về mô hình nhà nước này ngày càng đầy đủ, thống nhất hơn. Hệ thống pháp
luật được xây dựng ngày càng đồng bộ, thống nhất, bảo đảm tính khả thi trong
thực tiễn. Vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được coi trọng trong hoạt
động của cả hệ thống chính trị và đời sống xã hội.
Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ ràng và hiệu quả
hơn. Bộ máy nhà nước được tổ chức tinh gọn, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu
quả. Quốc hội tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao chất lượng lập
pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Chính phủ tích
cực, chủ động trong điều hành, tập trung quản lý vĩ mô, cải cách hành chính, tháo
gỡ điểm nghẽn, phục vụ phát triển đất nước. Cải cách tư pháp được đẩy mạnh;
các cơ quan tư pháp từng bước được hoàn thiện về tổ chức, nâng cao chất lượng
hoạt động, bảo đảm nguyên tắc pháp quyền trong xét xử và thực thi công lý. Các
quyền con người, quyền công dân được hiến định và ngày càng được cụ thể hóa
bằng pháp luật và triển khai hiệu quả trên thực tế. Dân chủ đại diện và dân chủ
trực tiếp tiếp tục được phát huy. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội từng bước đổi mới phương thức hoạt động, đóng góp thiết thực vào
việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân.
Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nguyên tắc
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đang ngày càng hoàn thiện,
trở thành nền tảng vững chắc góp phần vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Thành tựu của tỉnh Hà Tĩnh
2.1. Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Hà Tĩnh phát huy tinh thần, hào
khí Cách mạng Tháng Tám năm 1945 xây dựng quê hương ngày càng phát triển,
vững mạnh
Sau Cách mạng tháng Tám, trước những khó khăn chồng chất, quân và dân
Hà Tĩnh dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nhanh chóng triển khai và hoàn thành xuất
sắc nhiều nhiệm vụ cách mạng mới. Vừa củng cố xây dựng Đảng bộ chính quyền
cách mạng và các đoàn thể quần chúng, vừa tập trung khắc phục nạn đói, đẩy mạnh
tăng gia sản xuất, phát triển phong trào bình dân học vụ và văn hoá giáo dục, xây
dựng lực lượng vũ trang, đấu tranh với mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù. Chỉ trong
vòng 16 tháng, Hà Tĩnh đã đạt được nhiều kết quả to lớn, chuẩn bị bước vào cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hà Tĩnh đã sớm tổ chức được lực
15
lượng vũ trang và là tỉnh đầu tiên của Liên khu IV nổ súng kháng chiến chống thực
dân Pháp với trận Na Pê ngày 07/9/1945.
Trong 09 năm kháng chiến chống Pháp, quân và dân Hà Tĩnh đã cảnh giác, chủ
động đánh bại các cuộc tập kích, xâm nhập phá hoại của kẻ thù, tiêu biểu là chiến
thắng Nam Bình (Thạch Hà) ngày 20/8/1953 và chiến thắng Nhượng Bạn (Cẩm
Xuyên) ngày 04/9/1953. Trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng hậu phương, thành
công nổi bật đầu tiên là quân và dân tỉnh nhà đã xây dựng được các An toàn khu ở
phía Tây tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho các xưởng sản xuất vũ khí, các xưởng chế
biến hoá chất, dược liệu, xưởng in bạc của Liên khu IV và cả Trung bộ hoạt động,
đáp ứng yêu cầu của các chiến trường, đồng thời là nơi đứng chân của các đơn vị chủ
lực và cơ quan lãnh đạo kháng chiến của Liên khu IV (vào thời kỳ cao điểm, ở các An
toàn khu của Hà Tĩnh có trên 10 vạn cán bộ, công nhân với 12 xưởng sản xuất vũ khí
lớn cùng hàng chục xưởng sản xuất vũ khí vừa và nhỏ hoạt động).
Trong lĩnh vực xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, Nhân dân Hà Tĩnh đã
giành được nhiều thành tích nổi bật. Tháng 02/1949, Hà Tĩnh được Bộ Giáo dục
công nhận là một trong những tỉnh đầu tiên của cả nước hoàn thành thanh toán nạn
mù chữ trên phạm vi toàn tỉnh, được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Độc
lập hạng Nhì và nhiều lần được Người gửi thư khen…
Thực hiện nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến miền Nam trong 09 năm kháng
chiến chống Pháp (từ 1945 - 1954), Hà Tĩnh có 43.780 thanh niên gia nhập quân
đội, 32.600 người đi dân công hoả tuyến, toàn tỉnh đóng góp 27.388.200 ngày công
phục vụ kháng chiến, cung cấp cho các mặt trận 161.830 tấn lương thực, thực
phẩm… Con em Hà Tĩnh luôn phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của quê
hương, chiến đấu kiên cường dũng cảm, tiêu biểu là tấm gương anh hùng liệt sĩ
Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong chiến dịch lịch sử Điện Biên
Phủ (từ ngày 13/3 đến 07/5/1954). Quân và dân Hà Tĩnh đã cùng cả nước đánh bại
thực dân Pháp xâm lược và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với hai nước bạn
Lào và Campuchia.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, trong hơn 10 năm hòa bình
(từ năm 1955 - 1965), quân, dân Hà Tĩnh đã đoàn kết nhất trí hoàn thành thắng lợi
nhiều nhiệm vụ cách mạng nặng nề, phức tạp: phát động giảm tô và cải cách ruộng
đất nhằm xoá bỏ ách áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến, đem ruộng đất
về tay nông dân; chống âm mưu và hành động phá hoại của địch; khắc phục hậu quả
chiến tranh và thiên tai, khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá. Tiếp đó là thực hiện
thắng lợi công cuộc cải tạo XHCN và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của
CNXH. Trong quá trình đó, Hà Tĩnh tuy vấp phải những sai lầm, khuyết điểm, nhất là
trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, nhưng cán bộ, đảng viên và quần
chúng Nhân dân đã kịp thời khắc phục sửa chữa, đoàn kết, thống nhất, nhanh chóng
ổn định tình hình và tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tỉnh nhà tiến lên. Ngày
lượng vũ trang và là tỉnh đầu tiên của Liên khu IV nổ súng kháng chiến chống thực
dân Pháp với trận Na Pê ngày 07/9/1945.
Trong 09 năm kháng chiến chống Pháp, quân và dân Hà Tĩnh đã cảnh giác, chủ
động đánh bại các cuộc tập kích, xâm nhập phá hoại của kẻ thù, tiêu biểu là chiến
thắng Nam Bình (Thạch Hà) ngày 20/8/1953 và chiến thắng Nhượng Bạn (Cẩm
Xuyên) ngày 04/9/1953. Trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng hậu phương, thành
công nổi bật đầu tiên là quân và dân tỉnh nhà đã xây dựng được các An toàn khu ở
phía Tây tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho các xưởng sản xuất vũ khí, các xưởng chế
biến hoá chất, dược liệu, xưởng in bạc của Liên khu IV và cả Trung bộ hoạt động,
đáp ứng yêu cầu của các chiến trường, đồng thời là nơi đứng chân của các đơn vị chủ
lực và cơ quan lãnh đạo kháng chiến của Liên khu IV (vào thời kỳ cao điểm, ở các An
toàn khu của Hà Tĩnh có trên 10 vạn cán bộ, công nhân với 12 xưởng sản xuất vũ khí
lớn cùng hàng chục xưởng sản xuất vũ khí vừa và nhỏ hoạt động).
Trong lĩnh vực xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, Nhân dân Hà Tĩnh đã
giành được nhiều thành tích nổi bật. Tháng 02/1949, Hà Tĩnh được Bộ Giáo dục
công nhận là một trong những tỉnh đầu tiên của cả nước hoàn thành thanh toán nạn
mù chữ trên phạm vi toàn tỉnh, được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Độc
lập hạng Nhì và nhiều lần được Người gửi thư khen…
Thực hiện nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến miền Nam trong 09 năm kháng
chiến chống Pháp (từ 1945 - 1954), Hà Tĩnh có 43.780 thanh niên gia nhập quân
đội, 32.600 người đi dân công hoả tuyến, toàn tỉnh đóng góp 27.388.200 ngày công
phục vụ kháng chiến, cung cấp cho các mặt trận 161.830 tấn lương thực, thực
phẩm… Con em Hà Tĩnh luôn phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của quê
hương, chiến đấu kiên cường dũng cảm, tiêu biểu là tấm gương anh hùng liệt sĩ
Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong chiến dịch lịch sử Điện Biên
Phủ (từ ngày 13/3 đến 07/5/1954). Quân và dân Hà Tĩnh đã cùng cả nước đánh bại
thực dân Pháp xâm lược và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với hai nước bạn
Lào và Campuchia.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, trong hơn 10 năm hòa bình
(từ năm 1955 - 1965), quân, dân Hà Tĩnh đã đoàn kết nhất trí hoàn thành thắng lợi
nhiều nhiệm vụ cách mạng nặng nề, phức tạp: phát động giảm tô và cải cách ruộng
đất nhằm xoá bỏ ách áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến, đem ruộng đất
về tay nông dân; chống âm mưu và hành động phá hoại của địch; khắc phục hậu quả
chiến tranh và thiên tai, khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá. Tiếp đó là thực hiện
thắng lợi công cuộc cải tạo XHCN và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của
CNXH. Trong quá trình đó, Hà Tĩnh tuy vấp phải những sai lầm, khuyết điểm, nhất là
trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, nhưng cán bộ, đảng viên và quần
chúng Nhân dân đã kịp thời khắc phục sửa chữa, đoàn kết, thống nhất, nhanh chóng
ổn định tình hình và tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tỉnh nhà tiến lên. Ngày
16
15/6/1957, Nhân dân Hà Tĩnh vinh dự được đón Bác Hồ về thăm tại thị xã Hà Tĩnh.
Những lời dạy bảo ân cần và tình cảm nồng ấm của Bác đã tiếp thêm sức mạnh, củng
cố niềm tin sắt son đối với Đảng, với cách mạng, cổ vũ Nhân dân Hà Tĩnh vượt qua
mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Trong 10 năm tiến hành cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, xây dựng
hậu phương, chi viện cho tiền tuyến kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (từ năm 1965 -
1975), tỉnh Hà Tĩnh có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng: "hậu phương của tiền
tuyến miền Nam, tiền tuyến của hậu phương miền Bắc". Mặc dù phải đương đầu với
những thử thách ác liệt, chịu đựng những tổn thất, hy sinh to lớn, nhưng dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ, quân và dân Hà Tĩnh đã nêu cao ý chí tự lực tự cường, vươn lên
mạnh mẽ với tinh thần "Xe chưa qua, nhà không tiếc", "Thóc không thiếu một cân,
quân không thiếu một người", "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược". Toàn tỉnh đã nở rộ phong trào "Thanh niên ba sẵn sàng", "Phụ nữ bđảm
đang", sản xuất giỏi, chiến đấu và phục vụ chiến đấu giỏi. Trong cuộc chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, quân và dân Hà Tĩnh đã bắn rơi 267 máy
bay, bắn chìm và bắn cháy 34 tàu chiến, tàu biệt kích của địch, đập tan nhiều âm mưu
phá hoại của kẻ thù. Với phong trào thi đua bắn rơi máy bay địch, nhiều đơn vị đã nổi
lên như Tiểu đoàn 8 pháo cao xạ đã kiên cường đánh địch bảo vệ tuyến đường số 1,
bắn rơi 07 máy bay Mỹ; các đơn vị nữ dân quân Kỳ Phương (Kỳ Anh), Thạch Đỉnh
(Thạch Hà) và lão dân quân Kỳ Tiến (Kỳ Anh) đều bắn rơi máy bay Mỹ… Nhiều địa
danh, nhiều chiến sỹ đã đi vào lịch sử như là huyền thoại với những chiến công vang
dội. Tiêu biểu như: Núi Nài, Đèo Ngang, chỉ trong ngày 26/3/1965, quân và dân Thị
xã Hà Tĩnh đã bắn rơi 09 máy bay, quân và dân Kỳ Anh bắn rơi 03 máy bay của
Mỹ…; Ngã ba Đồng lộc huyền thoại, ghi danh Tiểu đội thanh niên xung phong
"Mười cô gái Đồng Lộc" (thuộc Đại đội 552, Tổng đội 55) "sống bám cầu, bám
đường, chết kiên cường dũng cảm" đã hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình cho cách
mạng; Anh hùng La Thị Tám, một mình một trận địa, bám trụ trên đỉnh núi Mòi, giữa
mưa bom bão đạn đếm từng quả bom rơi để đánh dấu vào bản đồ cho đồng đội…
Từ năm 1965 - 1975, toàn tỉnh có 92.913 thanh niên nhập ngũ (chiếm 10%
dân số toàn tỉnh lúc đó), 334.128 lượt người đi dân công hoả tuyến, 10.636 thanh
niên xung phong… Để giành lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, 13.024 người con
của Hà Tĩnh đã anh dũng hy sinh trên các chiến trường. Trong số đó, sự hy sinh của
10 cô gái thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc (ngày 24/7/1968) là một
minh chứng điển hình cho lòng quả cảm, vì nước quên thân của bao thế hệ người Hà
Tĩnh. Rất nhiều gia đình có con độc nhất, hoặc 02 con, 03 con, 04 con là liệt sĩ.
Nhiều tập thể và cá nhân được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng
vũ trang, nhiều bà mẹ được phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng. Tất cả
các huyện, thị xã đều được phong tặng là đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang
Nhân dân. Hàng chục vạn cán bộ, chiến sĩ, dân quân tự vệ và Nhân dân được Đảng,
15/6/1957, Nhân dân Hà Tĩnh vinh dự được đón Bác Hồ về thăm tại thị xã Hà Tĩnh.
Những lời dạy bảo ân cần và tình cảm nồng ấm của Bác đã tiếp thêm sức mạnh, củng
cố niềm tin sắt son đối với Đảng, với cách mạng, cổ vũ Nhân dân Hà Tĩnh vượt qua
mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Trong 10 năm tiến hành cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, xây dựng
hậu phương, chi viện cho tiền tuyến kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (từ năm 1965 -
1975), tỉnh Hà Tĩnh có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng: "hậu phương của tiền
tuyến miền Nam, tiền tuyến của hậu phương miền Bắc". Mặc dù phải đương đầu với
những thử thách ác liệt, chịu đựng những tổn thất, hy sinh to lớn, nhưng dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ, quân và dân Hà Tĩnh đã nêu cao ý chí tự lực tự cường, vươn lên
mạnh mẽ với tinh thần "Xe chưa qua, nhà không tiếc", "Thóc không thiếu một cân,
quân không thiếu một người", "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược". Toàn tỉnh đã nở rộ phong trào "Thanh niên ba sẵn sàng", "Phụ nữ bđảm
đang", sản xuất giỏi, chiến đấu và phục vụ chiến đấu giỏi. Trong cuộc chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, quân và dân Hà Tĩnh đã bắn rơi 267 máy
bay, bắn chìm và bắn cháy 34 tàu chiến, tàu biệt kích của địch, đập tan nhiều âm mưu
phá hoại của kẻ thù. Với phong trào thi đua bắn rơi máy bay địch, nhiều đơn vị đã nổi
lên như Tiểu đoàn 8 pháo cao xạ đã kiên cường đánh địch bảo vệ tuyến đường số 1,
bắn rơi 07 máy bay Mỹ; các đơn vị nữ dân quân Kỳ Phương (Kỳ Anh), Thạch Đỉnh
(Thạch Hà) và lão dân quân Kỳ Tiến (Kỳ Anh) đều bắn rơi máy bay Mỹ… Nhiều địa
danh, nhiều chiến sỹ đã đi vào lịch sử như là huyền thoại với những chiến công vang
dội. Tiêu biểu như: Núi Nài, Đèo Ngang, chỉ trong ngày 26/3/1965, quân và dân Thị
xã Hà Tĩnh đã bắn rơi 09 máy bay, quân và dân Kỳ Anh bắn rơi 03 máy bay của
Mỹ…; Ngã ba Đồng lộc huyền thoại, ghi danh Tiểu đội thanh niên xung phong
"Mười cô gái Đồng Lộc" (thuộc Đại đội 552, Tổng đội 55) "sống bám cầu, bám
đường, chết kiên cường dũng cảm" đã hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình cho cách
mạng; Anh hùng La Thị Tám, một mình một trận địa, bám trụ trên đỉnh núi Mòi, giữa
mưa bom bão đạn đếm từng quả bom rơi để đánh dấu vào bản đồ cho đồng đội…
Từ năm 1965 - 1975, toàn tỉnh có 92.913 thanh niên nhập ngũ (chiếm 10%
dân số toàn tỉnh lúc đó), 334.128 lượt người đi dân công hoả tuyến, 10.636 thanh
niên xung phong… Để giành lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, 13.024 người con
của Hà Tĩnh đã anh dũng hy sinh trên các chiến trường. Trong số đó, sự hy sinh của
10 cô gái thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc (ngày 24/7/1968) là một
minh chứng điển hình cho lòng quả cảm, vì nước quên thân của bao thế hệ người Hà
Tĩnh. Rất nhiều gia đình có con độc nhất, hoặc 02 con, 03 con, 04 con là liệt sĩ.
Nhiều tập thể và cá nhân được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng
vũ trang, nhiều bà mẹ được phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng. Tất cả
các huyện, thị xã đều được phong tặng là đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang
Nhân dân. Hàng chục vạn cán bộ, chiến sĩ, dân quân tự vệ và Nhân dân được Đảng,
17
Nhà nước tặng thưởng các loại Huân, Huy chương cao quý. Chặng đường 10 năm
đó là một trong những thời kỳ lịch sử vẻ vang, oanh liệt của tỉnh Hà Tĩnh.
Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ Hai, Quốc hội khoá V (ngày 27/12/1975) về
việc điều chỉnh một số đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, từ năm 1976, tỉnh
Hà Tĩnh hợp nhất với tỉnh Nghệ An thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Trải qua 2 kỳ kế hoạch
xây dựng CNXH (từ năm 1976 - 1985), tình hình kinh tế - xã hội vùng Hà Tĩnh có
nhiều chuyển biến đáng kể. Cơ sở vật chất, kỹ thuật trong các ngành kinh tế, nhất là
trong nông nghiệp được đầu tư xây dựng, nâng cấp, đặc biệt, sau 03 năm phấn đấu
quyết liệt, ngày 26/3/1979, công trình đại thủy nông Kẻ Gỗ hoàn thành. Tỉnh ủy, Ủy
ban nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh đã mở hội mừng công trọng thể. Từ đây, 30 vạn Nhân
dân vùng hạ du hồ Kẻ Gỗ thoát cảnh hạn hán. Kẻ Gỗ không chỉ có ý nghĩa về kinh tế
mà còn là một công trình văn hóa, thể hiện sự đoàn kết, sức mạnh tổng hợp của lòng
dân. Hoạt động văn hoá, giáo dục, thể thao… có nhiều chuyển biến cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu; tình hình chính trị - xã hội ổn định.
Tuy nhiên, do những yếu kém, khó khăn về cả khách quan và chủ quan, cũng
như tình hình chung của cả nước, đời sống của các tầng lớp Nhân dân vẫn gặp nhiều
khó khăn…
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm
1986), trong 5 năm từ 1986 - 1991, công cuộc đổi mới ở Hà Tĩnh đã giành được
những thành tựu có ý nghĩa.
Việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế trong nông, lâm, ngư nghiệp đã phát
huy được tác dụng, mang lại hiệu quả rõ rệt. Năng suất, sản lượng đều tăng. Sản xuất
nông sản hàng hoá đều phát triển, nhất là lạc, mía, chè… Kinh tế thuỷ hải sản có
chuyển biến cả về quy mô sản xuất, hình thức tổ chức, hiệu quả kinh tế, nhất là tổ
chức lại sản xuất và nuôi trồng thuỷ sản. Một số mặt hàng công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp có sự tăng trưởng nhanh hơn thời kỳ trước, giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp trong 5 năm (từ 1986 - 1991) tăng bình quân hàng năm 17,76%... Cơ
sở hạ tầng như giao thông, điện, trường học… được chú ý đầu tư xây dựng.
Các lĩnh vực văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ. Quy mô giáo dục phát triển
nhanh hơn trước. Phong trào văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể thao có nhiều khởi
sắc, nhất là tổ chức được nhiều hoạt động có ý nghĩa nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100
Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mặc dù tình hình thế giới và trong nước cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 diễn
biến phức tạp, song Hà Tĩnh vẫn đảm bảo tốt quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã
hội; tình hình chính trị, xã hội ổn định, góp phần tạo điều kiện để thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
2.2. Đảng bộ Hà Tĩnh - chặng đường sau gần 35 năm tái lập tỉnh, tiếp tục
thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế
Nhà nước tặng thưởng các loại Huân, Huy chương cao quý. Chặng đường 10 năm
đó là một trong những thời kỳ lịch sử vẻ vang, oanh liệt của tỉnh Hà Tĩnh.
Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ Hai, Quốc hội khoá V (ngày 27/12/1975) về
việc điều chỉnh một số đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, từ năm 1976, tỉnh
Hà Tĩnh hợp nhất với tỉnh Nghệ An thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Trải qua 2 kỳ kế hoạch
xây dựng CNXH (từ năm 1976 - 1985), tình hình kinh tế - xã hội vùng Hà Tĩnh có
nhiều chuyển biến đáng kể. Cơ sở vật chất, kỹ thuật trong các ngành kinh tế, nhất là
trong nông nghiệp được đầu tư xây dựng, nâng cấp, đặc biệt, sau 03 năm phấn đấu
quyết liệt, ngày 26/3/1979, công trình đại thủy nông Kẻ Gỗ hoàn thành. Tỉnh ủy, Ủy
ban nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh đã mở hội mừng công trọng thể. Từ đây, 30 vạn Nhân
dân vùng hạ du hồ Kẻ Gỗ thoát cảnh hạn hán. Kẻ Gỗ không chỉ có ý nghĩa về kinh tế
mà còn là một công trình văn hóa, thể hiện sự đoàn kết, sức mạnh tổng hợp của lòng
dân. Hoạt động văn hoá, giáo dục, thể thao… có nhiều chuyển biến cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu; tình hình chính trị - xã hội ổn định.
Tuy nhiên, do những yếu kém, khó khăn về cả khách quan và chủ quan, cũng
như tình hình chung của cả nước, đời sống của các tầng lớp Nhân dân vẫn gặp nhiều
khó khăn…
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm
1986), trong 5 năm từ 1986 - 1991, công cuộc đổi mới ở Hà Tĩnh đã giành được
những thành tựu có ý nghĩa.
Việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế trong nông, lâm, ngư nghiệp đã phát
huy được tác dụng, mang lại hiệu quả rõ rệt. Năng suất, sản lượng đều tăng. Sản xuất
nông sản hàng hoá đều phát triển, nhất là lạc, mía, chè… Kinh tế thuỷ hải sản có
chuyển biến cả về quy mô sản xuất, hình thức tổ chức, hiệu quả kinh tế, nhất là tổ
chức lại sản xuất và nuôi trồng thuỷ sản. Một số mặt hàng công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp có sự tăng trưởng nhanh hơn thời kỳ trước, giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp trong 5 năm (từ 1986 - 1991) tăng bình quân hàng năm 17,76%... Cơ
sở hạ tầng như giao thông, điện, trường học… được chú ý đầu tư xây dựng.
Các lĩnh vực văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ. Quy mô giáo dục phát triển
nhanh hơn trước. Phong trào văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể thao có nhiều khởi
sắc, nhất là tổ chức được nhiều hoạt động có ý nghĩa nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100
Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mặc dù tình hình thế giới và trong nước cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 diễn
biến phức tạp, song Hà Tĩnh vẫn đảm bảo tốt quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã
hội; tình hình chính trị, xã hội ổn định, góp phần tạo điều kiện để thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
2.2. Đảng bộ Hà Tĩnh - chặng đường sau gần 35 năm tái lập tỉnh, tiếp tục
thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế
18
Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VIII, từ tháng 8/1991, Hà
Tĩnh được tái lập. Sau ngày tái lập, Hà Tĩnh đứng trước những khó khăn về kinh tế, xã
hội: cơ sở hạ tầng thấp kém, sản xuất hàng hoá chậm phát triển, thu nhập bình quân đầu
người thấp (69 USD); nhiều vấn đề xã hội đặt cần được tập trung giải quyết…
Trong 5 năm 1991 - 1995, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nghị
quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh khoá XIII, với tinh thần tự lực, tự cường, năng
động, sáng tạo, cùng với sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Trung ương, Đảng bộ và
Nhân dân Hà Tĩnh đã giành được nhiều thành quả quan trọng. Nhịp độ tăng trưởng
(GDP) bình quân hàng năm đạt 11,3%, nâng thu nhập bình quân đầu người đạt 149
USD (1995).
Trong 5 năm 1996 - 2000, tốc động tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm
đạt 7,05%; thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 1,5 lần, tỷ trọng nông, lâm, ngư
nghiệp trong GDP từ 63,5% xuống còn 51%, tăng giá trị công nghiệp, xây dựng từ
10,7% lên 14%, dịch vụ từ 25,8% lên 35%; sản xuất lương thực đạt 46 vạn tấn, bình
quân đầu người 370kg, mức cao nhất trong 6 tỉnh khu IV.
Từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (2006 - 2010), Hà Tĩnh thực sự
chuyển mình, mục tiêu “xây dựng Hà Tĩnh từ một tỉnh nông nghiệp sớm trở thành
tỉnh có công nghiệp - dịch vụ phát triển” đạt nhiều kết quả tích cực, kinh tế phát
triển nhanh; văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực; quốc phòng - an ninh được đảm
bảo; quan hệ hợp tác đối ngoại ngày càng mở rộng, phát huy hiệu quả; công tác xây
dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được tăng cường.
Nhờ thu hút đầu tư đột phá trong lĩnh vực công nghiệp đã tạo “cú hích” đưa
kinh tế Hà Tĩnh tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm, riêng giai đoạn 2011-
2015 tăng trưởng bình quân trên 18%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhiệm kỳ 2015 - 2020, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng với sự nỗ lực
lớn, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và toàn dân, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh
Hà Tĩnh đã giành được kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6,75% (thuộc
nhóm 20 tỉnh, thành phố đứng đầu cả nước). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng (tỷ
trọng nông nghiệp còn 12,2%, công nghiệp - xây dựng 45,5%, dịch vụ 42,3%).
Toàn tỉnh có trên 7.500 doanh nghiệp, gần 6 vạn hộ kinh doanh; thu hút được
trên 1.300 dự án đầu tư trong và ngoài nước với tổng vốn đăng ký trên 370.000 tỷ
đồng tương đương trên 16 tỷ USD; là tỉnh đứng thứ 9 cả nước về thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) với trên 70 dự án có tổng vốn đầu tư gần 13 tỷ USD. Hà Tĩnh
có 17 nước và vùng lãnh thổ vào đầu tư. Tỉnh có 02 khu kinh tế (Khu kinh tế Vũng
Áng, KKT Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo); 25 khu, cụm công nghiệp; có Cụm cảng
nước sâu Vũng Áng - Sơn Dương với 59 cầu cảng được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt quy hoạch là một trong ba đầu mối giao thương biển quốc tế của Việt Nam
Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VIII, từ tháng 8/1991, Hà
Tĩnh được tái lập. Sau ngày tái lập, Hà Tĩnh đứng trước những khó khăn về kinh tế, xã
hội: cơ sở hạ tầng thấp kém, sản xuất hàng hoá chậm phát triển, thu nhập bình quân đầu
người thấp (69 USD); nhiều vấn đề xã hội đặt cần được tập trung giải quyết…
Trong 5 năm 1991 - 1995, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nghị
quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh khoá XIII, với tinh thần tự lực, tự cường, năng
động, sáng tạo, cùng với sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Trung ương, Đảng bộ và
Nhân dân Hà Tĩnh đã giành được nhiều thành quả quan trọng. Nhịp độ tăng trưởng
(GDP) bình quân hàng năm đạt 11,3%, nâng thu nhập bình quân đầu người đạt 149
USD (1995).
Trong 5 năm 1996 - 2000, tốc động tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm
đạt 7,05%; thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 1,5 lần, tỷ trọng nông, lâm, ngư
nghiệp trong GDP từ 63,5% xuống còn 51%, tăng giá trị công nghiệp, xây dựng từ
10,7% lên 14%, dịch vụ từ 25,8% lên 35%; sản xuất lương thực đạt 46 vạn tấn, bình
quân đầu người 370kg, mức cao nhất trong 6 tỉnh khu IV.
Từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (2006 - 2010), Hà Tĩnh thực sự
chuyển mình, mục tiêu “xây dựng Hà Tĩnh từ một tỉnh nông nghiệp sớm trở thành
tỉnh có công nghiệp - dịch vụ phát triển” đạt nhiều kết quả tích cực, kinh tế phát
triển nhanh; văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực; quốc phòng - an ninh được đảm
bảo; quan hệ hợp tác đối ngoại ngày càng mở rộng, phát huy hiệu quả; công tác xây
dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được tăng cường.
Nhờ thu hút đầu tư đột phá trong lĩnh vực công nghiệp đã tạo “cú hích” đưa
kinh tế Hà Tĩnh tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm, riêng giai đoạn 2011-
2015 tăng trưởng bình quân trên 18%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhiệm kỳ 2015 - 2020, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng với sự nỗ lực
lớn, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và toàn dân, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh
Hà Tĩnh đã giành được kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6,75% (thuộc
nhóm 20 tỉnh, thành phố đứng đầu cả nước). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng (tỷ
trọng nông nghiệp còn 12,2%, công nghiệp - xây dựng 45,5%, dịch vụ 42,3%).
Toàn tỉnh có trên 7.500 doanh nghiệp, gần 6 vạn hộ kinh doanh; thu hút được
trên 1.300 dự án đầu tư trong và ngoài nước với tổng vốn đăng ký trên 370.000 tỷ
đồng tương đương trên 16 tỷ USD; là tỉnh đứng thứ 9 cả nước về thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) với trên 70 dự án có tổng vốn đầu tư gần 13 tỷ USD. Hà Tĩnh
có 17 nước và vùng lãnh thổ vào đầu tư. Tỉnh có 02 khu kinh tế (Khu kinh tế Vũng
Áng, KKT Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo); 25 khu, cụm công nghiệp; có Cụm cảng
nước sâu Vũng Áng - Sơn Dương với 59 cầu cảng được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt quy hoạch là một trong ba đầu mối giao thương biển quốc tế của Việt Nam
19
thiết kế cho tàu có tải trọng lên đến 20 - 30 vạn tấn. Theo định hướng phát triển, Khu
kinh tế Vũng Áng được quy hoạch xây dựng trung tâm logistics tại Vũng Áng - Sơn
Dương là trung tâm Logistics hạng I cấp quốc gia và quốc tế.
Trong thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh Hà
Tĩnh đã có nhiều cách làm sáng tạo, đạt được những kết quả tích cực, trở thành
phong trào sâu rộng, bền vững của toàn dân.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển toàn diện. Giáo dục - đào tạo đạt kết quả
nổi bật, nhất là tỷ lệ học sinh giỏi quốc gia. Thể thao đạt nhiều thành tích cao trong
các giải đấu trong nước, quốc tế. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được
tăng cường. Công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội đạt được kết quả rõ nét;
tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,53%, gần bằng bình quân cả nước. Hợp tác đối ngoại tiếp
tục phát huy hiệu quả. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững...
Công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được tăng
cường và đi vào chiều sâu. Tỉnh đã tập trung thực hiện có hiệu quả các chủ trương,
nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, trọng tâm là thực hiện Nghị quyết Trung ương
4 khóa XI, XII gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập, làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa
XII về sắp xếp, tinh gọn bộ máy. Đến hết năm 2019, tỉnh đã hoàn thành việc sắp xếp
80 đơn vị hành chính cấp xã (theo tinh thần Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị),
hình thành 34 xã mới, giảm 46 xã. Toàn tỉnh có 216 xã; các đơn vị hành chính cấp
xã sau sáp nhập hoạt động ổn định và đã tổ chức thành công đại hội đảng các cấp
nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX...
Nhiệm kỳ 2020 - 2025, triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025 trong bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều biến
động, phức tạp, khó lường với nhiều diễn biến mới chưa có tiền lệ. Trong nước, nền
kinh tế gặp nhiều khó khăn, bất ổn do tác động kéo dài của dịch Covid-19, xung đột
Nga - Ucraina, Israel - Hamas, các cuộc xung đột quân sự - chính trị ở Bắc Phi,
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung... tăng trưởng kinh tế, thương mại, đầu tư toàn
cầu suy giảm, giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu và yếu tố đầu vào sản xuất tăng, an
ninh năng lượng bất ổn… Trong tỉnh, cả hệ thống chính trị vừa tập trung khắc phục
hậu quả sự cố môi trường biển năm 2016, thiên tai, lũ lụt năm 2020, phòng chống
dịch Covid-19; vừa phục hồi và phát triển kinh tế, triển khai khối lượng lớn các mục
tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức nhưng
Hà Tĩnh đã nỗ lực phấn đấu và đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.
Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, trung bình giai đoạn 2021 - 2025 ước đạt 6,3% (6
tháng đầu năm ước đạt 7,9%); thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước, giai đoạn
2021 - 2025 đạt trên 70.000 tỷ đồng (6 tháng đầu năm 2025 đạt 8.006 tỷ đồng, xếp
thứ 3 Bắc Trung Bộ); kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư; môi trường đầu tư, kinh
doanh không ngừng được cải thiện. Đến nay, 100% cấp xã và cấp huyện đạt chuẩn
thiết kế cho tàu có tải trọng lên đến 20 - 30 vạn tấn. Theo định hướng phát triển, Khu
kinh tế Vũng Áng được quy hoạch xây dựng trung tâm logistics tại Vũng Áng - Sơn
Dương là trung tâm Logistics hạng I cấp quốc gia và quốc tế.
Trong thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh Hà
Tĩnh đã có nhiều cách làm sáng tạo, đạt được những kết quả tích cực, trở thành
phong trào sâu rộng, bền vững của toàn dân.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển toàn diện. Giáo dục - đào tạo đạt kết quả
nổi bật, nhất là tỷ lệ học sinh giỏi quốc gia. Thể thao đạt nhiều thành tích cao trong
các giải đấu trong nước, quốc tế. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được
tăng cường. Công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội đạt được kết quả rõ nét;
tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,53%, gần bằng bình quân cả nước. Hợp tác đối ngoại tiếp
tục phát huy hiệu quả. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững...
Công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được tăng
cường và đi vào chiều sâu. Tỉnh đã tập trung thực hiện có hiệu quả các chủ trương,
nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, trọng tâm là thực hiện Nghị quyết Trung ương
4 khóa XI, XII gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập, làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa
XII về sắp xếp, tinh gọn bộ máy. Đến hết năm 2019, tỉnh đã hoàn thành việc sắp xếp
80 đơn vị hành chính cấp xã (theo tinh thần Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị),
hình thành 34 xã mới, giảm 46 xã. Toàn tỉnh có 216 xã; các đơn vị hành chính cấp
xã sau sáp nhập hoạt động ổn định và đã tổ chức thành công đại hội đảng các cấp
nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX...
Nhiệm kỳ 2020 - 2025, triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025 trong bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều biến
động, phức tạp, khó lường với nhiều diễn biến mới chưa có tiền lệ. Trong nước, nền
kinh tế gặp nhiều khó khăn, bất ổn do tác động kéo dài của dịch Covid-19, xung đột
Nga - Ucraina, Israel - Hamas, các cuộc xung đột quân sự - chính trị ở Bắc Phi,
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung... tăng trưởng kinh tế, thương mại, đầu tư toàn
cầu suy giảm, giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu và yếu tố đầu vào sản xuất tăng, an
ninh năng lượng bất ổn… Trong tỉnh, cả hệ thống chính trị vừa tập trung khắc phục
hậu quả sự cố môi trường biển năm 2016, thiên tai, lũ lụt năm 2020, phòng chống
dịch Covid-19; vừa phục hồi và phát triển kinh tế, triển khai khối lượng lớn các mục
tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức nhưng
Hà Tĩnh đã nỗ lực phấn đấu và đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.
Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, trung bình giai đoạn 2021 - 2025 ước đạt 6,3% (6
tháng đầu năm ước đạt 7,9%); thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước, giai đoạn
2021 - 2025 đạt trên 70.000 tỷ đồng (6 tháng đầu năm 2025 đạt 8.006 tỷ đồng, xếp
thứ 3 Bắc Trung Bộ); kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư; môi trường đầu tư, kinh
doanh không ngừng được cải thiện. Đến nay, 100% cấp xã và cấp huyện đạt chuẩn
20
và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nông thôn mới (02 huyện đạt chuẩn Nông thôn
mới nâng cao).
Các lĩnh vực văn hóa - xã hội có chuyển biến tích cực; chất lượng giáo dục, y
tế được nâng lên; an sinh xã hội được bảo đảm, nhất là công tác giảm nghèo, chăm
lo cho đối tượng chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn. Quốc phòng - an ninh
được giữ vững, trật tự an toàn xã hội ổn định. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị được triển khai đồng bộ, góp phần củng cố nền tảng chính trị và tạo động
lực cho sự phát triển bền vững của tỉnh.
Công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả,
nhất là các chủ trương, kết luận, hướng dẫn của Trung ương về sắp xếp, tinh gọn tổ
chức bộ máy, đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương hai cấp. Sau
sắp xếp Hà Tĩnh giảm từ 209 đơn vị hành chính cấp xã xuống còn 69 đơn vị (gồm
09 phường và 60 xã), giảm 140 đơn vị. Công tác chuẩn bị đại hội các đảng bộ trực
thuộc, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đang được tập trung thực hiện một cách kỹ
lưỡng, bài bản, bảo đảm đúng quy trình, quy định. Theo kế hoạch, đại hội cấp xã sẽ
hoàn thành trong tháng 8/2025, đại hội cấp tỉnh hoàn thành trong tháng 10/2025.
III. PHÁT HUY THÀNH QUẢ, KINH NGHIỆM TRONG 80 NĂM
QUA, TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN, ĐỒNG BỘ CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI, ĐƯA ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM VÀ TỈNH HÀ TĨNH VỮNG VÀNG
TIẾN VÀO KỶ NGUYÊN MỚI, KỶ NGUYÊN GIÀU MẠNH, VĂN MINH,
THỊNH VƯỢNG
1. Nhiệm vụ trọng tâm của cả nước
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực triển khai Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
và các nghị quyết Trung ương mới nhất - trọng tâm là “ba đột phá chiến lược, sáu
nhiệm vụ trọng tâm, mười hai nhóm giải pháp lớn” - nhằm đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới; kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phát huy tối đa mọi nguồn lực, động lực, đặc
biệt là khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để phát triển nhanh,
bền vững; không ngừng nâng cao đời sống Nhân dân; rút ngắn khoảng cách với các
nước tiên tiến trong khu vực, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế; phấn đấu
sớm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và vươn lên tầm
nước công nghiệp hiện đại vào giữa thế kỷ XXI.
Bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, văn minh,
thịnh vượng của dân tộc - với cơ hội và thách thức đan xen. Phát huy bài học quý
báu từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm xây đất nước phồn vinh, hạnh phúc, hiện
và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nông thôn mới (02 huyện đạt chuẩn Nông thôn
mới nâng cao).
Các lĩnh vực văn hóa - xã hội có chuyển biến tích cực; chất lượng giáo dục, y
tế được nâng lên; an sinh xã hội được bảo đảm, nhất là công tác giảm nghèo, chăm
lo cho đối tượng chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn. Quốc phòng - an ninh
được giữ vững, trật tự an toàn xã hội ổn định. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị được triển khai đồng bộ, góp phần củng cố nền tảng chính trị và tạo động
lực cho sự phát triển bền vững của tỉnh.
Công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả,
nhất là các chủ trương, kết luận, hướng dẫn của Trung ương về sắp xếp, tinh gọn tổ
chức bộ máy, đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương hai cấp. Sau
sắp xếp Hà Tĩnh giảm từ 209 đơn vị hành chính cấp xã xuống còn 69 đơn vị (gồm
09 phường và 60 xã), giảm 140 đơn vị. Công tác chuẩn bị đại hội các đảng bộ trực
thuộc, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đang được tập trung thực hiện một cách kỹ
lưỡng, bài bản, bảo đảm đúng quy trình, quy định. Theo kế hoạch, đại hội cấp xã sẽ
hoàn thành trong tháng 8/2025, đại hội cấp tỉnh hoàn thành trong tháng 10/2025.
III. PHÁT HUY THÀNH QUẢ, KINH NGHIỆM TRONG 80 NĂM
QUA, TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN, ĐỒNG BỘ CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI, ĐƯA ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM VÀ TỈNH HÀ TĨNH VỮNG VÀNG
TIẾN VÀO KỶ NGUYÊN MỚI, KỶ NGUYÊN GIÀU MẠNH, VĂN MINH,
THỊNH VƯỢNG
1. Nhiệm vụ trọng tâm của cả nước
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực triển khai Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
và các nghị quyết Trung ương mới nhất - trọng tâm là “ba đột phá chiến lược, sáu
nhiệm vụ trọng tâm, mười hai nhóm giải pháp lớn” - nhằm đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới; kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phát huy tối đa mọi nguồn lực, động lực, đặc
biệt là khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để phát triển nhanh,
bền vững; không ngừng nâng cao đời sống Nhân dân; rút ngắn khoảng cách với các
nước tiên tiến trong khu vực, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế; phấn đấu
sớm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và vươn lên tầm
nước công nghiệp hiện đại vào giữa thế kỷ XXI.
Bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, văn minh,
thịnh vượng của dân tộc - với cơ hội và thách thức đan xen. Phát huy bài học quý
báu từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm xây đất nước phồn vinh, hạnh phúc, hiện
21
thực hóa Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ: “... xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh...”. Để biến khát vọng đó thành
hiện thực, cần kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. Gắn kết chặt chẽ tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận với xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cần giải phóng toàn bộ sức
sản xuất, khai thông mọi nguồn lực, phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh của đất
nước, trong đó:
- Tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, tháo gỡ các điểm
nghẽn, nút thắt, khơi thông, huy động mọi nguồn lực tạo động lực phát triển bứt
phá đất nước; bảo đảm sự đồng bộ, hài hòa giữa đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với hoàn thiện thể chế chính trị; với
đổi mới, hoàn thiện thể chế xã hội, thể chế văn hóa và thể chế bảo vệ môi trường
sinh thái, thể chế quốc phòng, an ninh và đối ngoại đáp ứng yêu cầu phát triển
nhanh, bền vững đất nước.
- Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh toàn diện; đổi mới đồng bộ phương thức và nâng cao năng lực lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nhất là xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tập trung xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên các cấp, nhất là cấp chiến lược thật sự có đức, có tài, ngang
tầm nhiệm vụ. Tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng và trong Nhà nước; tiếp
tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; củng cố niềm
tin, sự gắn bó của Nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng sản
xuất mới; đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo làm động
lực chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Đẩy mạnh xây dựng và thúc đẩy có hiệu quả chuyển đổi số, chuyển
đổi xanh, chuyển đổi năng lượng. Phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần
hoàn. Xây dựng chính phủ số, xã hội số.
- Tập trung xây dựng, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát
triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng bộ với xây dựng và hoàn thiện
thể chế khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo nền tảng cho phát triển lực
lượng sản xuất mới, hiện đại; đẩy mạnh đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng
thực hóa Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ: “... xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh...”. Để biến khát vọng đó thành
hiện thực, cần kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. Gắn kết chặt chẽ tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận với xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cần giải phóng toàn bộ sức
sản xuất, khai thông mọi nguồn lực, phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh của đất
nước, trong đó:
- Tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, tháo gỡ các điểm
nghẽn, nút thắt, khơi thông, huy động mọi nguồn lực tạo động lực phát triển bứt
phá đất nước; bảo đảm sự đồng bộ, hài hòa giữa đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với hoàn thiện thể chế chính trị; với
đổi mới, hoàn thiện thể chế xã hội, thể chế văn hóa và thể chế bảo vệ môi trường
sinh thái, thể chế quốc phòng, an ninh và đối ngoại đáp ứng yêu cầu phát triển
nhanh, bền vững đất nước.
- Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh toàn diện; đổi mới đồng bộ phương thức và nâng cao năng lực lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nhất là xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tập trung xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên các cấp, nhất là cấp chiến lược thật sự có đức, có tài, ngang
tầm nhiệm vụ. Tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng và trong Nhà nước; tiếp
tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; củng cố niềm
tin, sự gắn bó của Nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng sản
xuất mới; đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo làm động
lực chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Đẩy mạnh xây dựng và thúc đẩy có hiệu quả chuyển đổi số, chuyển
đổi xanh, chuyển đổi năng lượng. Phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần
hoàn. Xây dựng chính phủ số, xã hội số.
- Tập trung xây dựng, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát
triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng bộ với xây dựng và hoàn thiện
thể chế khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo nền tảng cho phát triển lực
lượng sản xuất mới, hiện đại; đẩy mạnh đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng
22
cao, trình độ cao, tạo động lực then chốt nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,
năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế.
- Phát triển nguồn lực con người, phát triển văn hóa thực sự trở thành nền
tảng, sức mạnh nội sinh, động lực to lớn cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất
nước. Tiếp tục đổi mới đồng bộ, căn bản, toàn diện, hiện đại hóa và nâng cao chất
lượng hệ thống giáo dục quốc dân. Đẩy mạnh đổi mới phương thức quản lý phát
triển xã hội bền vững, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện tốt các
chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
- Đẩy mạnh triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả công tác đối ngoại; nâng
tầm và phát huy vai trò đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân
trong việc kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác, tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển đất nước. Tiếp tục xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của đất nước.
2. Nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh Hà Tĩnh
- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ của Đảng.
Chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo
đức và cán bộ. Thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, khóa XII về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên.
- Tiếp tục vận hành mô hình chính quyền địa phương 02 cấp hoạt động hiệu
lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ tốt. Gắn chặt các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức đảng, trước hết là chất lượng cấp ủy, chất lượng cán bộ, đảng viên và sinh
hoạt Đảng. Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc của Đảng. Cụ thể hóa cơ chế kiểm
soát quyền lực, kiên quyết chống chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ.
- Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của
Đảng và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Phát huy rõ hơn
vai trò các đoàn công tác của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các cấp ủy đảng, Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông, cán bộ, đảng viên và
Nhân dân, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện, đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác dân vận, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội;
tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa
Đảng với Nhân dân.
cao, trình độ cao, tạo động lực then chốt nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,
năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế.
- Phát triển nguồn lực con người, phát triển văn hóa thực sự trở thành nền
tảng, sức mạnh nội sinh, động lực to lớn cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất
nước. Tiếp tục đổi mới đồng bộ, căn bản, toàn diện, hiện đại hóa và nâng cao chất
lượng hệ thống giáo dục quốc dân. Đẩy mạnh đổi mới phương thức quản lý phát
triển xã hội bền vững, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện tốt các
chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
- Đẩy mạnh triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả công tác đối ngoại; nâng
tầm và phát huy vai trò đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân
trong việc kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác, tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển đất nước. Tiếp tục xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của đất nước.
2. Nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh Hà Tĩnh
- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ của Đảng.
Chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo
đức và cán bộ. Thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, khóa XII về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên.
- Tiếp tục vận hành mô hình chính quyền địa phương 02 cấp hoạt động hiệu
lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ tốt. Gắn chặt các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức đảng, trước hết là chất lượng cấp ủy, chất lượng cán bộ, đảng viên và sinh
hoạt Đảng. Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc của Đảng. Cụ thể hóa cơ chế kiểm
soát quyền lực, kiên quyết chống chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ.
- Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của
Đảng và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Phát huy rõ hơn
vai trò các đoàn công tác của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các cấp ủy đảng, Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông, cán bộ, đảng viên và
Nhân dân, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện, đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác dân vận, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội;
tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa
Đảng với Nhân dân.
23
- Tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tích cực thực hiện mục tiêu chuyển
đổi xanh, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn; đẩy mạnh phát triển công nghiệp,
nông nghiệp và du lịch, dịch vụ; tập trung nâng cao chất lượng các tiêu chí nông
thôn mới. Đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang
chiều sâu, trên cơ sở đột phá ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số; ứng dụng thành tựu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát
triển kinh tế số, “kinh tế xanh”, kinh tế tuần hoàn, các ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo, công nghiệp hỗ trợ sau thép, dịch vụ cảng biển và logistics; thu hút đầu tư
các dự án năng lượng mới, năng lượng tái tạo.
- Tập trung chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh của
nền kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tăng cường thu hút đầu tư, nâng tỉ lệ
lấp đầy các khu, cụm công nghiệp; xây dựng Khu Kinh tế Vũng Áng thực sự trở thành
khu kinh tế đa chức năng. Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp; tiếp tục triển khai
mạnh mẽ, đồng bộ xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh, tình hình mới. Phát triển
dịch vụ cảng biển và hậu cần (logistics) trở thành trụ cột kinh tế quan trọng; nâng cao
chất lượng dịch vụ, nguồn nhân lực, phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch.
- Phát triển các thành phần kinh tế; thúc đẩy phát triển mạnh kinh tế tư nhân,
khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; tạo môi
trường thuận lợi, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Thực hiện hiệu quả các chủ trương,
nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần. Tiếp tục thực hiện thoái
vốn nhà nước, cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước. Thúc đẩy phát triển mạnh kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết
số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, nhất là trong các lĩnh vực, tiềm năng, lợi thế của tỉnh
như công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, du lịch… tạo lập môi trường
đầu tư, kinh doanh thuận lợi, nhất là giải quyết nhanh thủ tục hành chính.
- Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội đồng bộ; tăng cường thu hút đầu tư, đẩy nhanh tiến độ, phát
huy hiệu quả các dự án. Tập trung nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn then
chốt, các công trình, dự án trọng điểm, có sức lan tỏa, tạo động lực phát triển. Ưu
tiên huy động nguồn lực đầu tư hạ tầng giao thông kết nối đến hạ tầng giao thông
quốc gia, khu kinh tế Vũng Áng, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các khu du
lịch, dịch vụ ven biển; phát triển các trung tâm logistics, các khu bến cảng Vũng
Áng - Sơn Dương; chủ động phối hợp bộ, ngành Trung ương đẩy nhanh tiến độ
đường sắt cao tốc Bắc - Nam, đường sắt Lào - Vũng Áng, đường bộ cao tốc Vũng
Áng - cửa khẩu Cha Lo. Nâng cao chất lượng đô thị hóa; phát triển các đô thị trung
tâm gắn với “ba hành lang kinh tế”.
- Chú trọng đầu tư lĩnh vực văn hóa, xây dựng và khơi dậy các giá trị chuẩn
mực của con người Hà Tĩnh trong giai đoạn mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, thực hiện hiệu quả các chính sách đào tạo nguồn
- Tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tích cực thực hiện mục tiêu chuyển
đổi xanh, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn; đẩy mạnh phát triển công nghiệp,
nông nghiệp và du lịch, dịch vụ; tập trung nâng cao chất lượng các tiêu chí nông
thôn mới. Đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang
chiều sâu, trên cơ sở đột phá ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số; ứng dụng thành tựu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát
triển kinh tế số, “kinh tế xanh”, kinh tế tuần hoàn, các ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo, công nghiệp hỗ trợ sau thép, dịch vụ cảng biển và logistics; thu hút đầu tư
các dự án năng lượng mới, năng lượng tái tạo.
- Tập trung chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh của
nền kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tăng cường thu hút đầu tư, nâng tỉ lệ
lấp đầy các khu, cụm công nghiệp; xây dựng Khu Kinh tế Vũng Áng thực sự trở thành
khu kinh tế đa chức năng. Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp; tiếp tục triển khai
mạnh mẽ, đồng bộ xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh, tình hình mới. Phát triển
dịch vụ cảng biển và hậu cần (logistics) trở thành trụ cột kinh tế quan trọng; nâng cao
chất lượng dịch vụ, nguồn nhân lực, phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch.
- Phát triển các thành phần kinh tế; thúc đẩy phát triển mạnh kinh tế tư nhân,
khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; tạo môi
trường thuận lợi, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Thực hiện hiệu quả các chủ trương,
nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần. Tiếp tục thực hiện thoái
vốn nhà nước, cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước. Thúc đẩy phát triển mạnh kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết
số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, nhất là trong các lĩnh vực, tiềm năng, lợi thế của tỉnh
như công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, du lịch… tạo lập môi trường
đầu tư, kinh doanh thuận lợi, nhất là giải quyết nhanh thủ tục hành chính.
- Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội đồng bộ; tăng cường thu hút đầu tư, đẩy nhanh tiến độ, phát
huy hiệu quả các dự án. Tập trung nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn then
chốt, các công trình, dự án trọng điểm, có sức lan tỏa, tạo động lực phát triển. Ưu
tiên huy động nguồn lực đầu tư hạ tầng giao thông kết nối đến hạ tầng giao thông
quốc gia, khu kinh tế Vũng Áng, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các khu du
lịch, dịch vụ ven biển; phát triển các trung tâm logistics, các khu bến cảng Vũng
Áng - Sơn Dương; chủ động phối hợp bộ, ngành Trung ương đẩy nhanh tiến độ
đường sắt cao tốc Bắc - Nam, đường sắt Lào - Vũng Áng, đường bộ cao tốc Vũng
Áng - cửa khẩu Cha Lo. Nâng cao chất lượng đô thị hóa; phát triển các đô thị trung
tâm gắn với “ba hành lang kinh tế”.
- Chú trọng đầu tư lĩnh vực văn hóa, xây dựng và khơi dậy các giá trị chuẩn
mực của con người Hà Tĩnh trong giai đoạn mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, thực hiện hiệu quả các chính sách đào tạo nguồn
24
nhân lực. Nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân. Chăm
lo thực hiện tốt chính sách đối với người có công, công tác giảm nghèo, đặc biệt chú
trọng các xã miền núi, ven biển; đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho Nhân dân.
- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số
trên các lĩnh vực. Tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải
pháp theo Chương trình hành động số 42-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết số 57-
NQ/TW của Bộ Chính trị; phấn đấu hoàn thành 100% khung kiến trúc chính quyền
số tỉnh Hà Tĩnh phiên bản 4.0 trước năm 2027 đảm bảo đồng bộ; tỷ lệ sử dụng dịch
vụ công trực tuyến đạt trên 80%. Ưu tiên nguồn lực đầu tư, hoàn thiện hạ tầng khoa
học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, trọng tâm là chính quyền số, tạo
động lực thúc đẩy kinh tế số, xã hội số phát triển. Ứng dụng hiệu quả trí tuệ nhân
tạo (AI) vào công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của cơ quan Đảng, Nhà nước các
cấp trên địa bàn...
- Triển khai thực hiện hiệu quả chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược đảm
bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế
trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh,
bền vững với ba trụ cột “kinh tế - xã hội - môi trường”. Tăng cường và nâng cao
năng lực, hiệu quả hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực.
- Lãnh đạo, chỉ đạo học tập, quán triệt, tuyên truyền kịp thời, sâu rộng; xây
dựng chương trình hành động, kế hoạch cụ thể, tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu
quả Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, Nghị quyết Đại hội lần
thứ XIV của Đảng.
***
Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bầu không khí toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân nô nức thi đua chào mừng Đại hội XIV của Đảng là dịp để chúng ta
khắc sâu hơn nữa ý nghĩa lịch sử to lớn của những ngày mùa thu năm 1945 - khi
dân tộc ta vùng lên giành lấy quyền làm người, làm chủ đất nước. Đó cũng là lời
nhắc nhở về trách nhiệm hôm nay: tiếp nối tinh thần bất khuất, khát vọng độc lập -
tự do - hạnh phúc của cha ông, hun đúc bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, đổi mới
mạnh mẽ và sáng tạo không ngừng, quyết tâm hiện thực hóa khát vọng dựng xây
một nước Việt Nam phát triển toàn diện và bền vững trong kỷ nguyên mớ
nhân lực. Nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân. Chăm
lo thực hiện tốt chính sách đối với người có công, công tác giảm nghèo, đặc biệt chú
trọng các xã miền núi, ven biển; đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho Nhân dân.
- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số
trên các lĩnh vực. Tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải
pháp theo Chương trình hành động số 42-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết số 57-
NQ/TW của Bộ Chính trị; phấn đấu hoàn thành 100% khung kiến trúc chính quyền
số tỉnh Hà Tĩnh phiên bản 4.0 trước năm 2027 đảm bảo đồng bộ; tỷ lệ sử dụng dịch
vụ công trực tuyến đạt trên 80%. Ưu tiên nguồn lực đầu tư, hoàn thiện hạ tầng khoa
học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, trọng tâm là chính quyền số, tạo
động lực thúc đẩy kinh tế số, xã hội số phát triển. Ứng dụng hiệu quả trí tuệ nhân
tạo (AI) vào công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của cơ quan Đảng, Nhà nước các
cấp trên địa bàn...
- Triển khai thực hiện hiệu quả chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược đảm
bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế
trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh,
bền vững với ba trụ cột “kinh tế - xã hội - môi trường”. Tăng cường và nâng cao
năng lực, hiệu quả hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực.
- Lãnh đạo, chỉ đạo học tập, quán triệt, tuyên truyền kịp thời, sâu rộng; xây
dựng chương trình hành động, kế hoạch cụ thể, tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu
quả Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, Nghị quyết Đại hội lần
thứ XIV của Đảng.
***
Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bầu không khí toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân nô nức thi đua chào mừng Đại hội XIV của Đảng là dịp để chúng ta
khắc sâu hơn nữa ý nghĩa lịch sử to lớn của những ngày mùa thu năm 1945 - khi
dân tộc ta vùng lên giành lấy quyền làm người, làm chủ đất nước. Đó cũng là lời
nhắc nhở về trách nhiệm hôm nay: tiếp nối tinh thần bất khuất, khát vọng độc lập -
tự do - hạnh phúc của cha ông, hun đúc bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, đổi mới
mạnh mẽ và sáng tạo không ngừng, quyết tâm hiện thực hóa khát vọng dựng xây
một nước Việt Nam phát triển toàn diện và bền vững trong kỷ nguyên mớ